Dân Việt

Những tàu dừa khô của nội!

Nhất Huỳnh 21/06/2015 09:00 GMT+7
Tôi từ thành phố về đến quê nhà ở Trung Nghĩa (Vĩnh Long) sau bao năm xa cách. Lòng tôi như dịu mát trong cái nóng mùa hè khi chốn thôn quê yêu dấu ngày nào giờ đổi thay nhiều quá: Đường liên ấp lót đan, trải nhựa thẳng tắp thuận tiện giao thông, nhà tường kiên cố ngày một nhiều chứng tỏ đời sống bà con ngày một tốt hơn…

Bước chân dạo quanh vườn, ngước lên nhìn những cây dừa già cao tít tắp, tôi bắt gặp những tàu dừa khô treo lủng lẳng, bất chợt bóng hình nội gầy guộc trong tấm áo nâu, lom khom ngồi róc lá dừa dường như hiện về trước mắt.

img
Những tàu dừa khô treo lủng lẳng trên cây (Ảnh: Nhất Huỳnh)
Ngày ấy, gia đình thiếu trước hụt sau, cha mẹ đành gạt nước mắt gửi tôi ở nhà cùng nội mà bôn ba làm ăn ở phương xa. Tôi sống trong tình thương, trong sự quan tâm, lo lắng của nội, tôi nhớ hoài những đêm trăng tròn chỉ có hai bà cháu ngồi dưới hiên nhà, những tia sáng huyền diệu xuyên qua cành cây kẻ lá soi rõ đứa trẻ gối đầu lên đùi nội nghe kể chuyện đời xưa mà thích thú vô cùng.

Nghe chán chê chuyện đời xưa tôi lại mè nheo đòi nội kể chuyện cha lúc nhỏ. Nội cười hiền say sưa kể biết bao chuyện từ lúc cha tôi vừa cất tiếng khóc chào đời, đến lúc chập chững bước đi những bước đầu tiên, cả những lúc cha tôi bị bệnh thì nội suốt đêm không ngủ vì lo lắng…Kể đến đó, nội xoa đầu tôi nhẹ nhàng bảo: “Ngày xưa nội thương cha con một thì bây giờ thương con đến mười lận đó! Thôi khuya rồi, bà cháu mình đi ngủ thôi con à!”.

Phía sau nhà là một khu vườn nhỏ với chục cây dừa và vài bụi chuối. Cứ đôi ba tuần nội lại dẫn tôi ra vườn lượm dừa khô rụng để dành đến khi đủ chục, còn buồng chuối chín thì nội lựa những nải trái to, tròn lẵn đem ra chợ bán. Đâu chỉ vậy, tôi nhớ mãi dáng nội lêu xiêu trong nắng xế chiều, mồ hôi nhễ nhại, ra sức giựt những tàu dừa khô trên cây xuống mà thương, mà xót biết bao. Nhiều lần, tôi chạy đến xin kéo phụ thì nội xua tay, bảo tránh ra xa kẻo tàu dừa rớt xuống trúng đầu.

Khi nội đã “tập hợp” xong những tàu dừa khô vào góc vườn, tôi vào nhà lấy con dao ra cho nội róc lá dừa. Tôi nhớ mãi bàn tay chai sần vì cực nhọc của nội chậm rãi róc từng tàu dừa. Lâu lâu nội lấy tay quệt mồ hôi chảy dài trên vầng trán hằn những nếp nhăn. Nội róc hết lá rồi lấy dây chuối bó lá dừa thành từng bó, khéo léo xiết dây thật chặt thì để bó lá dừa không bị bung mà trông tròn và đẹp. Tôi được nội “phân công” ôm từng bó lá dừa vào chái bếp, lúc đầu tôi cứ ngỡ nặng lắm, nào ngờ nội dành phần dễ nhất cho đứa cháu bé bỏng, những bó lá dừa nhẹ tênh mà trĩu nặng tình thương vô bờ bến của nội dành cho tôi.

Những bó dừa khô ấy, một phần nội bán cho bà con chòm xóm lấy tiền mua quà bánh cho tôi, phần còn lại nội để dành nhúm lửa vì ngày ấy làm gì có bếp gas, bếp điện như bây giờ. Khi đun nước, nấu cơm cho củi vào bếp rồi đốt lá dừa mồi lửa, lá dừa khô bén lửa mau lắm, khi cháy phát ra tiếng tí tách vui tai. Những lúc nội bảo đun nước là tôi rút cả mấy nắm lá dừa để đun chứ không thèm xài đến củi, thế là bị nội la cho một chập rằng xài hoang phí quá, đến mùa mưa thì chẳng có lá dừa khô đâu mà mồi lửa, đến khi đó con có thổi hết cả hơi thì củi cũng chẳng cháy đâu...

"Con ơi! Làm gì mà ở ngoài vườn lâu vậy? Vào uống nước dừa cho mát nè!”. Giọng mẹ trong nhà gọi vọng ra cắt ngang dòng hồi tưởng của tôi. Ôi! Thời gian trôi qua nhanh quá, cha mẹ tôi sau bao thăng trầm đất khách trở về quê để phụng dưỡng nội, được một thời gian thì nội đã ra đi vào cõi vĩnh hằng. Những cây dừa thâm thấp ngày nào giờ đã trở thành dừa cao tít tắp, thân khẳng khiu hằn viết tích thời gian. Xen lẫn trong đó là những cây dừa mới trồng tươi tốt như minh chứng cho cuộc đời tần tảo, vất vả sớm hôm, vì con vì cháu của nội kính yêu.