Do môi trường
Có thể do khâu cải tạo ao dùng lượng vôi lớn làm pH trong nước cao và kéo dài, pH sáng thường 8,3 - 8,7. Cùng đó là độ cứng (Ca2+ và Mg2+) của nước cao, tôm hấp thu quá nhiều Ca2+ và Mg2+ làm xuất hiện những đốm trắng (đốm vôi) trên vỏ tôm.
Biểu hiện là tôm có đốm trắng ở vỏ đầu ngực hoặc phần vỏ ở sống lưng nhưng vẫn khỏe, không có tôm tấp bờ, tôm vẫn hoạt động và ăn bình thường; song, chu kỳ lột xác dài hơn bình thường và tôm sinh trưởng chậm hơn đàn tôm khác cùng đợt.
Để khắc phục hiện tượng này, người nuôi phải kiểm soát pH buổi sáng ở mức thích hợp (7,5 - 8,0) bằng việc tránh bón vôi quá liều, tiến hành thay nước để giảm độ cứng, cho tôm ăn đủ dinh dưỡng, bổ sung khoáng nhằm kích thích tôm lột xác để tránh việc tôm bị đốm trắng.
Tôm bị bệnh đốm trắng gây thiệt hại lớn cho người nuôi - Ảnh: Máy Cày
Do vi khuẩn
Hội chứng đốm trắng do vi khuẩn gây ra (Bacteria White Spot Syndrome - BWSS) có thể do vi khuẩn thuộc họ Bacillacae. Ngoài ra, Vibrio Cholerae được coi là nguyên nhân cơ hội của tôm nuôi, tại các ao có pH và độ kiềm cao ở Thái Lan. Ở Việt Nam, theo TS Bùi Quang Tề, năm 2004 vi khuẩn Vibrio spp đã được nuôi cấy từ mẫu tôm sú nuôi.
Khi bị bệnh, tôm lột vỏ bị chậm lại, chậm lớn và chết rải rác; hầu hết tôm bị đóng rong, đen mang. Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục hình tròn trên khắp vỏ cơ thể (Các đốm trắng này có thể mất khi tôm lột vỏ). Soi kính hiển vi, thấy đốm trắng có dạng lan tỏa hình địa y bạc màu ở giữa rỗng khác với đốm trắng do vi rút có đốm đen (melanin) ở giữa. Các đốm trắng thường chỉ ở phía ngoài lớp biểu bì và tổ chức liên kết, ít nguy hiểm với tổ chức phía trong.
Sử dụng kỹ thuật mô học quan sát các tôm bị nhiễm thấy được sự hoại tử và phân hủy mối liên kết giữa biểu mô vỏ và mô liên kết, nhưng không ảnh hưởng đến các mô nằm bên trong như cơ. Mô bệnh của tôm bị đốm trắng do vi khuẩn không phát hiện thấy thể vùi nội nhân đặc trưng ở nội bì và trung bì. Khi kiểm tra PCR cho kết quả âm tính với WSSV.
Biện pháp xử lý trong trường hợp này là kiểm soát mật độ vi khuẩn trong ao nuôi và tích cực tiến hành cải thiện môi trường ao nuôi (xử lý nước, chất thải, giảm tảo…). Song song đó là tăng cường bổ sung Vitamin C, men vi sinh, khoáng chất, thuốc bổ gan vào thức ăn, nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm.
Do virus
Virus gây hội chứng đốm trắng (White Spot Syndrome Virus - WSSV) là do một loại virus có tên Baculovirus thuộc họ Nimaviridae gây ra. Virus này có acid nucleic là DNA, ký sinh trong nhân. Virus có độc lực rất mạnh, tấn công nhiều mô tế bào khác nhau, thường trên tế bào biểu mô da. WSSV gây chết trên mọi giai đoạn phát triển từ ấu trùng đến tôm giống và tôm trưởng thành.
Mầm bệnh có trong tôm hoặc xâm nhập từ bên ngoài thông qua nguồn nước, các ký chủ trung gian. Khi lượng chất thải nuôi tôm nhiều, môi trường nuôi bị ô nhiễm hay thời tiết thay đổi, tôm bị yếu sẽ tạo điều kiện cho các loại virus bùng phát gây dịch bệnh cho tôm. Bệnh thường phát triển khi giao mùa.
Triệu chứng thường gặp nhất là tôm ăn nhiều đột ngột, sau giảm dần. Trên tôm xuất hiện nhiều đốm trắng đồng đều kích thước 0,5 - 2,0 mm bên trong vỏ, nhất là ở phần giáp đầu ngực hoặc ở cuối đốt trước và lan toàn thân. Thân tôm đôi khi chuyển màu đỏ, cơ thịt hơi đục.
Khi bệnh nặng, các đốm trắng chiếm toàn bộ vỏ giáp, vỏ giáp được bóc ra dễ dàng, ruột tôm không có thức ăn. Bệnh thường xuất hiện 1 - 2 tháng sau khi thả nuôi, giai đoạn này tôm nhỏ nên khó thấy đốm trắng, chỉ thấy đỏ thân. Bệnh có thể bùng phát trong 2 - 3 ngày, tỷ lệ chết rất cao (có thể 100%). Soi dưới kính hiển vi, thấy xuất hiện những điểm nâu dày đặc ở vùng trung tâm, các thể vùi hiện diện bên trong tế bào vỏ của tôm bị nhiễm. Kết quả xét nghiệm dương tính với WSSV.
Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị bệnh do virus gây ra bệnh đốm trắng. Vì vậy, chỉ có thể phòng bệnh bằng các phương pháp: Áp dụng các công nghệ nuôi như công nghệ Biofloc thân thiện với môi trường để phòng, chống bệnh hiệu quả; Xét nghiệm, chọn tôm bố mẹ, tôm giống chất lượng tốt, không nhiễm WSSV; Chọn mùa vụ nuôi thích hợp, tránh thả vào mùa lạnh; Nguồn nước phải qua lắng lọc trước khi đưa vào ao; Cách ly ao nuôi với các tác nhân có thể lan truyền bệnh (giáp xác); Quản lý và theo dõi chặt chẽ môi trường ao nuôi; Tăng cường bổ sung Vitamin C, men vi sinh, khoáng chất, thuốc bổ gan vào thức ăn.
Với ao tôm bệnh, nên vớt tôm chết ra khỏi ao, đem tiêu hủy; dùng Chlorine liều lượng 30 ppm (30 kg/1.000 m3) phun xuống toàn bộ ao; giữ nguyên nước trong ao sau 7 - 10 ngày mới được tháo ra ngoài. Khi phát hiện bệnh, tốt nhất là thu hoạch ngay.