Nghề đi bắt lươn trên đồng ở quê tôi (một xã nghèo của huyện Anh Sơn, Nghệ An những năm 80 của thế kỷ trước) khá đa dạng, từ cách đặt trúm cho đến dùng lưỡi móc để câu lươn, dùng cuốc đào quanh bờ ruộng để bắt lươn… Nhưng có một cách bắt lươn (còn gọi là núc lươn) khá hiệu quả và phổ biến, đó là bắt lươn trên những thửa ruộng mới cày bừa xong vào buổi ban ngày.
Những đứa trẻ đi núc lươn ở quê tôi.
Nhớ ngày trước, con lươn trên ruộng đồng quê tôi rất nhiều. Trên những thửa ruộng mới cày bừa xong trước mỗi vụ gieo cấy, chỉ qua một đêm là xuất hiện vô số lươn. Ngày ấy lươn rất dễ bắt, bởi chúng thường để lại một lớp bùn non mới trơn mượt ở miệng lỗ. Lươn thường đào lỗ ở khắp nơi trên ruộng, nhưng thường có hai lỗ nên rất dễ nhìn thấy. Lỗ to là hướng của đầu lươn, lỗ nhỏ là hướng đuôi lươn. Muốn biết lươn to hay nhỏ chỉ cần nhìn vào miệng lỗ là có thể biết.
Bọn trẻ ở làng tôi ngày ấy rất điêu luyện trong việc đi bắt lươn trên đồng. Sau mỗi buổi, đứa nào cũng kiếm được vài ba ký lươn, với giá bán trên dưới 50 ngàn đồng mỗi ký, cũng mang lại cho chúng tôi một khoản thu nhập.
Công việc núc lươn ở quê tôi ngày ấy mới nghe qua tưởng như rất dễ. Nhưng để bắt được con lươn, lũ trẻ phải đi từ lúc trời mờ sáng, í ới gọi nhau, mang theo dao, xô chậu rồi “hành quân” ra ruộng. Sở dĩ chúng tôi phải đi từ mờ sáng để núc lươn bởi vì chim cò cũng là những “tay săn bắt” mồi điêu luyện. Nếu đi muộn, lũ cò xuống kiếm ăn sẽ làm đục nước, rất khó tìm lươn để núc.
Tùy thuộc vào kinh nghiệm, người dân quê tôi có thể dùng tay hoặc dao để bắt lươn. Nếu động tới chỗ nào mà thấy miệng lỗ nước phun trào ra mạnh thì đó là hướng đuôi lươn. Khi đó chúng tôi chỉ cần dùng chân dẫm tới liên tục là lươn hoảng sợ, sẽ trườn ra khỏi miệng lỗ. Lúc đó ta chỉ cần dùng tay hoặc dùng dao chặt mạnh xuống để bắt lươn.
Đi bắt lươn trên đồng của bọn trẻ quê tôi ngày ấy thật thú vị. Nó chỉ diễn ra một khoảng thời gian ngắn trước mỗi vụ gieo cấy trong năm nhưng vẫn là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong ký ức tuổi thơ tôi.