Dân Việt

Hậu Formosa: DN sẽ tự đóng cửa nếu không đáp ứng được yêu cầu môi trường

Thanh Xuân 15/07/2016 16:15 GMT+7
Về những tác động của Formosa tới nền kinh tế Việt Nam, TS Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chính sách, Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia (VEPR) cho biết, sau sự việc xảy ra tại Formosa, việc đóng cửa hay thu hút đầu tư các doanh nghiệp nước ngoài FDI là một vấn đề rất quan trọng, liên quan trực tiếp tới chiến lược đầu tư của Việt Nam.

“Trước đây, khi chưa có sự cố Formosa, làm việc với lãnh đạo tỉnh Vũng Tàu, chúng tôi mới được biết, họ có cả một Nghị quyết nêu rõ: Chỉ thu hút đầu tư của các doanh nghiệp có công nghệ không gây ô nhiễm môi trường vì Vũng Tàu là điểm đến của du lịch. Quan điểm của Vũng Tàu khi đó cũng gặp phải sự phản đối của rất nhiều các tổ chức phi chính phủ, nhưng họ vẫn kiên định thực hiện vì đã đưa vào nghị quyết của tỉnh”, ông Thành nói.

Theo ông Thành, mục tiêu tăng trưởng là rất cần thiết nhưng cùng với đó phải kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường. Thực tế, ở bất kỳ một quốc gia nào, song song với phát triển kinh tế chính là nạn ô nhiễm môi trường. Vấn đề nằm ở chỗ các doanh nghiệp xử lý môi trường được tới mức nào? Ông Thành kể ông biết có doanh nghiệp nhuộm giấy đang xin đầu tư vào Việt Nam còn cam kết sẽ xử lý nước thải đạt loại A (tức là trong hơn, sạch hơn nước trên sông Đồng Nai), trước khi nước thải được xả ra môi trường.

img

“Trước đây chúng ta đã phải xử lý sự cố của Vedan và bây giờ là Formosa. Sau sự cố Formosa, vấn đề ô nhiễm môi trường vẫn sẽ tiếp tục xảy ra ở những nơi có các doanh nghiệp sản xuất thép, giấy, nhuộm vải, sợi… sản xuất. Tôi cho rằng, với công nghệ hiện đại, người ta có thể xử lý tốt vấn đề môi trường nhưng điều quan trọng là chi phí cho xử lý môi trường thường rất lớn”, ông Thành đánh giá.

Do đó, theo TS Thành, nếu chúng ta dễ dãi trong thu hút đầu tư nghĩa là đã “đồng lõa” với các doanh nghiệp trong xử lý môi trường. Các địa phương đa phần đều có tâm lý muốn thu hút những dự án triệu đô, tỷ đô đầu tư vào tỉnh nhà. Nhưng nếu đòi hỏi các doanh nghiệp FDI phả xử lý môi trường tốt thì chi phí sẽ tăng cao. Chính vì thế, nhiều địa phương trước sức ép tăng trưởng kinh tế, sợ mất nhà đầu tư nên chấp nhận dễ dãi trong xử lý môi trường hoặc để lỏng lẻo trong giám sát”, ông Thành nhận định.

Nói về vấn đề hậu Formosa, TS Nguyễn Đức Thành cho rằng Việt Nam giờ đã có chính sách nhất quán về thu hút đầu tư, doanh nghiệp đang đầu tư mà bắt đóng cửa thì hậu quả cũng sẽ rất khó lường. Các doanh nghiệp FDI khác cũng sẽ nhìn vào câu chuyện của Formosa và e ngại khi có ý định đầu tư vào Việt Nam, bởi họ thấy hễ có sự cố là doanh nghiệp bị đóng cửa. Như vậy e rằng sẽ khó có doanh nghiệp nào tìm đến đầu tư nữa.

“Tôi đã tham vấn nhiều tổ chức nước ngoài về vấn đề này. Họ cho rằng mình nên yêu cầu doanh nghiệp vi phạm phải đảm bảo được các điều kiện về xử lý môi trường tốt nhất. Còn nếu thấy không đáp ứng được những yêu cầu xử lý môi trường của ta thì họ sẽ tự đóng cửa chứ ta không ép họ”, ông Thành phân tích.

Ông Thành lý giải, nếu làm được như vậy Việt Nam sẽ nhất quán trong chiến lược đầu tư. Tuy nhiên, sau “bài học Formosa”, các địa phương cũng phải có “Nghị quyết riêng về môi trường như Vũng Tàu”, gửi thông điệp đến các nhà đầu tư nước ngoài rằng chúng tôi không chấp nhận đánh đổi môi trường lấy kinh tế bằng mọi giá.

“Nhiều tổ chức chúng tôi tham vấn cho tới nay chưa ai dám khẳng định đã tính đúng, tính đủ thiệt hại về môi trường mà Formosa đã gây ra. Do đó, nếu Formosa cam kết sẽ xử lý và khắc phục được hậu quả môi trường thì chúng ta vẫn phải để cho họ hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Chỉ trừ khi những tác động tới môi trường không thể chấp nhận được và họ cũng không thể khắc phục được, chúng ta mới phải buộc cấm cửa họ”, ông Thành nhấn mạnh.

Mới đây, VEPR cũng đưa ra Báo cáo đánh giá hiện tượng cá chết hàng loạt ở biển miền Trung sau sự cố môi trường nghiêm trọng do Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ra. VEPR cho rằng, sự cố Formosa đã gây một cú sốc bất lợi cho nền kinh tế nói chung, một tổn thất lớn cho khu vực bị ảnh hưởng trực tiếp nói riêng. Đây là tiếng chuông dữ dội cảnh báo về hậu quả môi trường trong quá trình phát triển.  

VEPR đánh giá tác động về mặt kinh tế của hiện tượng cá chết hàng loạt sẽ thông qua 2 kênh. Thứ nhất là tác động trực tiếp đến những ngành có liên quan như nuôi trồng khai thác và chế biến thủy sản, nghề muối, du lịch. Thứ hai là trong trung và dài hạn, nhiều ngành khác trong nền kinh tế sẽ chịu tác động lan tỏa dây chuyền. Ngoài ra, những thiệt hại về môi trường biển, nguồn lợi thủy sản, uy tín chỉ dẫn địa lý, sinh kế người dân gắn kết xã hội lâu dài, to lớn và rất khó đánh giá.