Cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha đại diện cho thế lực mới nổi và một đế chế suy yếu.
Theo National Interest, cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha vào năm 1898 đánh dấu việc nước Mỹ giành được các lãnh thổ rộng lớn, từng bước trở thành siêu cường khi thiết lập một đế chế dài hàng nghìn km bên ngoài lãnh thổ.
Tác giả Kyle Mizokami phân tích, đây là ví dụ điển hình cho một cuộc xung đột khá phổ biến, trong trường hợp này là giữa Tây Ban Nha, một cường quốc đang suy yếu và Mỹ, một cường quốc đang trỗi dậy. Kết quả là một cuộc chiến tranh tất yếu giữa hai nước.
Đến cuối thế kỷ 19, Tây Ban Nha đã bộc lộ dấu hiệu suy yếu rõ rệt. Madrid không còn kiểm soát được đế chế của mình. Các cuộc khởi nghĩa chống Tây Ban Nha nổ ra ở những thuộc địa xa xôi như Cuba và Philippines. Những khó khăn trong việc dập tắt các cuộc nổi dậy này càng cho thấy sự suy yếu của Tây Ban Nha.
Trong khi đó, ở Bắc Mỹ, học thuyết mở rộng lãnh thổ ra ngoài lục địa Bắc Mỹ đang đi đúng hướng. Bang Washington tham gia vào Liên bang miền Bắc năm 1890 đã thống nhất hoàn toàn nước Mỹ. Từ đó, Hoa Kỳ muốn mở rộng lợi ích kinh doanh và thậm chí là lập đế chế riêng. Điều này khiến các nước sở hữu thuộc địa ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Thái Bình Dương nâng cao cảnh giác.
Vụ chìm tàu USS Maine đẩy Mỹ và Tây Ban Nha đi đến chiến tranh.
Sự cố thiết giáp hạm USS Maine bị chìm ngày 15.1.1898 khiến 266 thủy thủ thiệt mạng, được coi là giọt nước tràn ly sau một chuỗi căng thẳng kéo dài giữa Washington và Madrid. Chiến hạm này được cho là bị thủy lôi tấn công ở cảng Havana, dù có các bằng chứng cho thấy nguyên nhân chìm tàu là một vụ nổ bất ngờ trên boong.
Cái chết của 266 thủy thủ dẫn đến chiến tranh không thể tránh khỏi, ngay cả khi Tổng thống Mỹ thứ 25, William McKinley mong muốn né tránh xung đột.
Ngày 19.4.1898, Quốc hội Mỹ chấp thuận yêu cầu của Tổng thống William McKinley, về việc can thiệp quân sự vào Cuba, dưới danh nghĩa ủng hộ phe nổi dậy. Hai ngày sau, hải quân Mỹ tiến hành phong tỏa Cuba. Tây Ban Nha đáp trả bằng việc tuyên chiến vào ngày 23.1. Tới ngày 25.1, Mỹ cũng tuyên bố chiến tranh với Tây Ban Nha.
Ở thời điểm nổ ra chiến tranh, Tây Ban Nha có 150.000 lính bộ binh thường trực và 80.000 dân quân địa phương ở Cuba. Đây là những con số rất ấn tượng với các sử gia. Trên thực tế, những binh sĩ này chỉ được huấn luyện sơ sài và trang bị thô sơ. Lực lượng Tây Ban Nha ở Cuba giống một nhóm quân đồn trú để bảo vệ các chủ đất khỏi quân nổi dậy, thay vì là một đội quân đủ sức chiến đấu trong một cuộc chiến tranh quy ước.
Đây là lần đầu tiên nước Mỹ phát động một cuộc chiến quy mô toàn cầu.
Tây Ban Nha cũng chỉ duy trì các hạm đội hải quân mỏng manh ở Cuba và Philippines. Khoảng cách xa xôi khiến họ không thể sớm tăng cường chi viện. Do chưa bao giờ bước vào cuộc chiến tranh quy mô toàn cầu nên Mỹ cũng không có sự chuẩn bị tốt. Quân đội Mỹ chỉ có 28.747 sĩ quan được bố trí trên khắp cả nước theo đội hình cấp đại đội.
Sau khi nội chiến Mỹ kết thúc, quân đội chỉ được tối ưu hóa cho nhiệm vụ tác chiến chống nổi dậy quy mô nhỏ, nhằm đối phó với những bộ tộc bản địa ở phía tây. Hải quân Mỹ khá hơn vì đã có sẵn hạm đội tàu chiến đông đảo, sẵn sàng phong tỏa vùng biển quanh Cuba.
Giao tranh đầu tiên diễn ra ngày 1.5 ở vịnh Manila, Philippines. Hạm đội người châu Á của Phó đề đốc George Dewey nhanh chóng đánh bại hạm đội và hệ thống phòng thủ trên bờ biển của Tây Ban Nha, bao vây toàn bộ quần đảo này. Tháng 7.1898, bộ binh Mỹ đặt chân lên Philippines, thuộc địa của Tây Ban Nha. Chính quyền Tây Ban Nha kiểm soát đảo quốc này nhanh chóng đầu hàng.
Giao tranh ở Cuba cũng chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Chiến dịch trên bộ bắt đầu vào ngày 22.6, khi Quân đoàn 5 của Mỹ đổ bộ lên phía tây Santiago mà không vấp phải sự kháng cự nào. Một đợt đổ bộ khác của Thủy quân lục chiến Mỹ diễn ra ở Vịnh Guantanamo và đảo Puerto Rico.
Tổng thống Mỹ thứ 26, Theodore Roosevelt (giữa) chụp ảnh cùng thành viên trong đơn vị kỵ binh đầu tiên tham gia cuộc chiến với Tây Ban Nha năm 1898.
Phối hợp với lực lượng nổi dậy Cuba, quân đội Mỹ tiến sâu vào Santiago và tham gia một loạt trận đánh. Dù không hoàn toàn giành thắng lợi, quân Mỹ làm suy yếu hệ thống phòng thủ trên đảo của Tây Ban Nha.
Trong khi đó, hạm đội Caribbean của Tây Ban Nha bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 2.7, trong Trận Santiago de Cuba. Sau khi bị hải quân Mỹ oanh tạc, quân Tây Ban Nha ở Santiago cũng đầu hàng sau đó 2 tuần. Thất bại của Tây Ban Nha ở Cuba khi đó là điều không thể tránh khỏi.
Quân Mỹ càng chiến đấu càng mạnh hơn do được bổ sung thêm viện binh, trong khi quân Tây Ban Nha ngày càng suy yếu và không thể rút lui. Ngày 18.7, chính phủ Tây Ban Nha ký hiệp ước hòa bình, cuộc đàm phán kết thúc chiến tranh chấm dứt diễn ra ngày 12.8.
Sau chiến tranh, Mỹ chiếm đóng Philippines, đảo Guam và Puerto Rico, đồng thời chiếm đóng Cuba đến tận năm 1903. Chính phủ Mỹ sau đó công nhận nền độc lập của Cuba, nhưng vẫn có tiếng nói trong nền chính trị Cuba.
Cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha với quy mô toàn cầu đã chính thức đưa Hoa Kỳ trở thành siêu cường. Có thể nói cuộc chiến này là cơ sở để Mỹ khuếnh trương sức mạnh toàn cầu, khiến nước này tiếp tục xung đột với một cường quốc trỗi dậy nữa là Nhật Bản, trong Thế chiến 2.