Dân Việt

Tham gia mô hình ESCO, doanh nghiệp lợi nhiều bề

Việt Hà 10/04/2017 06:40 GMT+7
Bằng việc áp dụng mô hình ESCO, các doanh nghiệp (DN) có thể tiếp cận các giải pháp xanh, đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ mới với chi phí đầu tư tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất.

Những lợi ích kép…

img

 Mô hình ESCO giúp tiết kiệm năng lượng và hiệu quả cho các doanh nghiệp nguồn lực có hạn. Ảnh: N.T

Thống kê của EVN cho thấy, dù đã nỗ lực tuyên truyền và hành động cụ thể trong việc tiết kiệm điện, mỗi năm, cả nước mới chỉ tiết kiệm khoảng trên 2% tổng sản lượng điện thương phẩm. Đây là con số quá ít ỏi so với tiềm năng vốn có. Theo khảo sát cho thấy, xi măng là ngành có tiềm năng TKNL lớn nhất, khoảng 50%. Trung bình, nguồn năng lượng có thể tiết kiệm trong lĩnh vực công nghiệp là trên 20%; xây dựng, giao thông vận tải từ 25-35%; sinh hoạt, dịch vụ là 15-30%…

Ông Trần Viết Nguyên - Phó Trưởng ban Kinh doanh EVN - cho biết, Tập đoàn đã triển khai thí điểm cung cấp dịch vụ tiết kiệm năng lượng  (TKNL) theo mô hình ESCO (chuyên cung cấp các giải pháp năng lượng toàn diện bao gồm thiết kế và thực hiện các dự án TKNL, bảo tồn năng lượng, cho thuê cơ sở hạ tầng năng lượng) từ năm 2014. Đến nay, EVN đã chính thức ký kết và triển khai 7 hợp đồng ở khu vực phía Nam với giải pháp được chọn là cung cấp hệ thống bình nước nóng bằng năng lượng mặt trời quy mô công nghiệp. “Khi tham gia vào mô hình ESCO, DN sẽ được rất nhiều lợi ích như tận dụng được nguồn tài chính đầu tư ban đầu bởi các công ty dịch vụ ESCO đã cung cấp trọn gói, tổng thể từ khâu khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt, bảo trì, bảo dưỡng và chuyển giao công nghệ; tiết giảm được sản lượng điện… Nhờ vậy, giúp DN giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hình ảnh, thương hiệu của một DN thân thiện với môi trường” - ông Nguyên nhấn mạnh.

Để thực hiện thành công việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, vấn đề về kỹ thuật và tài chính là 2 yếu tố then chốt. Đây được coi là những khó khăn mà các DN gặp phải khi triển khai. Mô hình ESCO ra đời đã giải quyết được vấn đề này. ESCO cung cấp dịch vụ TKNL hiệu quả, là cầu nối giữa cơ quan nhà nước với tổ chức ngân hàng và các DN – người triển khai thực hiện các giải pháp.

Theo ông Nguyễn Đình Hiệp - Tổng Thư ký Hội Khoa học và Công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam, hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã trở thành quy định bắt buộc và được luật hóa tại Việt Nam. ESCO nằm trong các biện pháp quan trọng để triển khai kế hoạch hành động quốc gia về TKNL. Bằng việc áp dụng mô hình ESCO, các DN có thể tiếp cận các giải pháp xanh, đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ mới với chi phí đầu tư tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất.

Hoàn thiện chính sách thúc đẩy ESCO

Thực tế, thực hiện mô hình ESCO, ngành điện sẽ giảm bớt áp lực về vốn, giãn tiến độ đầu tư cho các công trình nguồn và lưới điện, giảm quá tải, sự cố, hư hỏng thiết bị điện trong quá trình vận hành, có điều kiện tốt hơn để hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm cung cấp điện ổn định cho khách hàng. Ở tầm vĩ mô, tiết kiệm càng nhiều điện sẽ tiết kiệm được nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường nhất là trong bối cảnh nguồn nhiên liệu hóa thạch than, dầu khí đang dần cạn kiệt và những thách thức từ biến đổi khí hậu.

Theo ông Hiệp, để hình thành công ty ESCO, cần bảo đảm năng lực về tư vấn, thiết lập được mạng lưới hợp tác về tài chính và đảm bảo tài chính, thiết lập mạng lưới cung cấp công nghệ và giải pháp TKNL.

Cũng theo ông Hiệp, mặc dù có tiềm năng lớn và đang trong giai đoạn khởi sắc, nhưng thị trường cho ESCO tại Việt Nam vẫn có những trở ngại nhất định. Chẳng hạn như, hiện vẫn thiếu cơ chế hỗ trợ tài chính cho việc phát triển và triển khai các dự án TKNL; chưa có nhiều quỹ, tổ chức tài chính tham gia các hoạt động ESCO; các khách hàng vẫn chưa tin tưởng, chỉ quan tâm đến việc tăng doanh số hơn là giảm chi phí thông qua TKNL; các quy định đầu tư cho các dự án TKNL còn mang tính khuyến khích, chưa có những quy định bắt buộc… Hơn nữa, các giải pháp TKNL lại ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như: Bình nước nóng năng lượng mặt trời, điều hòa, hệ thống bơm, biến tần…; trong khi công tác truyền thông, tuyên truyền về ESCO đến DN, người dân còn hạn chế. Bên cạnh đó là khó khăn về nguồn vốn vì vốn của EVN hiện chủ yếu dùng để phát triển hạ tầng điện, còn ESCO chỉ là dịch vụ gia tăng thêm.

Ông Trần Viết Nguyên cho rằng, để thúc đẩy hoạt động ESCO tại Việt Nam, cần đẩy mạnh truyền thông, marketing về ESCO. Đồng thời, thành lập và phát huy vai trò hỗ trợ của Hiệp hội ESCO. Và điều quan trọng nhất đó chính là vai trò của người đứng đầu DN trong áp dụng mô hình này vào hoạt động của DN.

Về vấn đề này, ông Nguyễn Đình Hiệp cho rằng, điều quan trọng nhất là cần hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy ESCO. Bên cạnh đó cần xây dựng các cơ chế tài chính bền vững, xây dựng mô hình liên kết tài chính giữa DN – Công ty ESCO và tổ chức tín dụng…