Thúc đẩy chế biến sâu và tiêu thụ trong nước
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh và đại diện phía hiệp hội ngành hàng đều có chung nhận định, mặc dù cà phê và tiêu là những cây trồng chủ lực đem lại giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ đô, nhưng mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất, chế biến vẫn rất lỏng lẻo, chưa thực sự gắn kết thành chuỗi nhằm tạo ra giá trị kinh tế, sức cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
Nhiều hộ nông dân tỉnh Đăk Nông đang gặp khó khăn vì tình trạng tiêu chết do dịch bệnh. Ảnh: Duy Hậu
Bà Nguyễn Mai Oanh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam nhận định, bất cập lớn nhất của ngành hồ tiêu hiện nay là chưa có bộ giống chuẩn, do đó cần đẩy nhanh chương trình giống cho hồ tiêu; xây dựng và thúc đẩy hình thành các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp - nông dân trong sản xuất, chế biến hồ tiêu an toàn và nên truy xuất xuất xứ sản phẩm. Theo bà Oanh, các đối tác nước ngoài sẵn sàng trả giá cao từ 10-20%, thậm chí tới 50% để mua tiêu sạch, an toàn. |
Đối với ngành cà phê, năm 2016, xuất khẩu cà phê nhân của nước ta đứng thứ hai thế giới với sản lượng 1,78 triệu tấn (đạt 3,34 tỷ USD), tăng 32,8% về lượng và 25% về giá trị. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu của cà phê vẫn thấp, do chủ yếu xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô.
Theo Cục Trồng trọt, tỷ lệ cà phê chế biến sâu vẫn còn rất khiêm tốn, chiếm chưa đến 10% sản lượng cà phê cả nước. Ông Nguyễn Viết Vinh – Tổng Thư ký Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam cho hay, nếu bổ sung 32.000 tấn cà phê chế biến của Nhà máy Cà phê hòa tan Tín Nghĩa trong năm 2017 tỷ lệ cà phê chế biến sâu của Việt Nam cũng mới đạt 12% - con số rất khiêm tốn.
Nhắc lại thông tin trong chuỗi cà phê, chúng ta chỉ thu được vài % lợi nhuận, còn lại nước ngoài hưởng, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Lê Quốc Doanh đặt vấn đề: “Chế biến lãi nhiều sao doanh nghiệp ít đầu tư?”. Giải đáp về vấn đề này, ông Nguyễn Viết Vinh cho rằng, đầu tư một nhà máy chế biến cần lượng vốn lớn, nhưng việc tiêu thụ cà phê ở trong nước ít và chịu áp lực cạnh tranh rất lớn của các doanh nghiệp FDI.
Về thị trường, hiện doanh nghiệp chủ yếu mới xuất khẩu được cà phê chế biến sang tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), còn xuất sang Lào, Campuchia số lượng không đáng kể. Trong khi đó, Brazil tiêu dùng trong nước tới 43%, Indonesia tiêu dùng nội địa 34-35%... Chính vì thế, theo ông Vinh, một trong những hoạt động trọng tâm của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam trong những năm tới là thúc đẩy chế biến và tiêu dùng cà phê trong nước.
Liên kết nhà nông – doanh nghiệp đang “có vấn đề”
Nông dân Tây Nguyên thu hoạch cà phê nguyên liệu. Ảnh minh họa
Nói về chuỗi giá trị, ông Vinh cho hay: “Liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân đang có vấn đề: 94,5% người nông dân tham gia vào chuỗi cà phê, 1ha của họ được 3-5 tấn thì bán lượng đó với giá trị gia tăng không đáng kể, nhưng thương lái, trung gian, tính ra chỉ 3%, thu mua số lượng rất lớn nên thu lợi rất cao. Bây giờ muốn cải thiện chuỗi giá trị gia tăng này phải thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân mạnh mẽ hơn”.
Cũng theo ông Vinh, mua bán cà phê qua thương lái có rất nhiều rủi ro về chất lượng. Vấn đề này đã được các doanh nghiệp trong hiệp hội họp bàn nhiều, nhưng các doanh nghiệp lớn đều nói “không làm thế nào để thoát khỏi thương lái, trung gian, các đại lý được”. Một nhược điểm nữa là mặc dù đã có tiêu chuẩn về cà phê xuất khẩu, nhưng hiện các doanh nghiệp chỉ bán theo “thỏa thuận” về độ ẩm, hạt vỡ, tạo chất bao nhiêu % là chính, số tuân thủ theo tiêu chuẩn chỉ khoảng 1%. Điều này khiến cà phê của Việt Nam bị trả giá thấp.
Trong khi đó, theo Cục Trồng trọt, trên 80% sản lượng cà phê được sơ chế bằng phương pháp phơi khô tại hộ gia đình với sân phơi bạt, sân gạch, sân xi măng khiến chất lượng cà phê sơ chế tại nông hộ còn thấp. Đối với chế biến cà phê bột, các cơ sở có quy mô nhỏ với máy móc, thiết bị lạc hậu chưa đảm bảo điều kiện an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm. Việc pha trộn nguyên liệu thay thế chưa được kiểm soát dẫn đến chất lượng cà phê bột còn hạn chế.
Tương tự, mặt hàng hồ tiêu của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô. Hiện ngành hồ tiêu đang phải đối mặt tình trạng phát triển nóng do tăng nhanh diện tích trồng hồ tiêu trong những năm qua, với tổng diện tích khoảng 125.000ha. Qua đó phát sinh rủi ro về giá (giá bán hồ tiêu giảm gần một nửa, hiện ở dưới mức 110.000 đồng/kg) và tình hình dịch bệnh chết nhanh chết chậm, bệnh tuyến trùng đang gây hại nhiều vườn cây.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đánh giá, dù hồ tiêu là cây tỷ đô, nhưng còn rất nhiều hạn chế ở các khâu: Giống, phòng trừ dịch bệnh, ứng dụng khoa học kỹ thuật... Bên cạnh đó, thời gian qua, do giá tiêu tăng cao nên nông dân gia tăng mạnh diện tích trồng tiêu và chăm bón nhiều, dẫn đến hiện tượng đất chai cứng và dịch bệnh phát sinh. Đây là những yếu tố khiến việc phát triển ngành tiêu kém bền vững, chất lượng hồ tiêu chưa đạt như mong muốn.
Vì thế, Thứ trưởng giao Cục BVTV phối hợp Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam xây dựng các mô hình liên kết, hợp tác tốt giữa doanh nghiệp và nông dân về sản xuất an toàn, qua đó tuyên truyền, nhân rộng. Theo Thứ trưởng, hồ tiêu Việt Nam sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu (tới 98% sản lượng), do đó các doanh nghiệp xuất khẩu cần có trách nhiệm với ngành, với nông dân trong việc liên kết, thúc đẩy sản xuất hồ tiêu an toàn, sạch bệnh và bền vững.