Thái phó Tô Hiến Thành (1102-1179) quê làng Hạ Mỗ (nay thuộc Đan Phượng, Hà Nội). Ông là bậc hiền thần dưới thời vua Lý Anh Tông, văn võ song toàn, từng có công đánh dẹp Ai Lao, Chân Lạp, và một số cuộc nổi loạn trong nước.
Ông cũng là người có công lập tượng Khổng Tử ở Thăng Long, kinh qua những chức vụ chủ chốt trong triều, cao nhất là thái phó bình chương quân quốc trọng sự (tể tướng) và làm phụ chính cho vua Lý Cao Tông.
Từ chối mâm vàng hối lộ
Nhờ văn võ song toàn, Tô Hiến Thành sớm được phong chức lớn và rất được tin dùng. Vua Lý Anh Tông sắp mất đã giao thái tử Long Cán cho ông và được quyền thay vua nhỏ tuổi nhiếp chính.
Sách Giai thoại Lịch sử Việt Nam chép rằng tháng 7.1175, vua Lý Anh Tông mất. Vua có hai con trai là Long Xưởng và Long Cán. Trước đó một năm, con trưởng Long Xưởng ăn ở vô đạo, đã bị truất ngôi thái tử. Long Cán được vua cha cho thay giữ ngôi vị này.
Mẹ của Long Xưởng là Chiêu Linh buộc phải vâng lệnh, nhưng trong lòng ấm ức, muốn con mình được làm thái tử. Đến khi Lý Anh Tông trở bệnh nguy kịch, bà tìm cách thuyết phục nhà vua một lần nữa. Một cuộc đối đáp rất đáng ghi nhớ đã diễn ra giữa vua Anh Tông, quan quyền nhiếp chính Tô Hiến Thành và bà Chiêu Linh.
Tranh vẽ Tô Hiến Thành từ chối cả mâm vàng hối lộ.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Trước đó, khi vua ốm nặng, hoàng hậu họ Đỗ lại xin lập Long Xưởng. Vua nói: Làm con bất hiếu thì trị dân làm sao được? Ít lâu sau, nhà vua băng hà, để lại di chiếu cho Long Trát lên ngôi và giao cho Tô Hiến Thành phò tá ấu chúa".
Bấy giờ, Đỗ Thái hậu muốn phế Long Trát để lập con trai lên làm vua, bèn đem vàng bạc đút cho vợ của Tô Hiến Thành. Tô Hiến Thành biết được, đã nói rằng: "Ta là đại thần nhận mệnh của tiên tổ để lo giúp đỡ vua còn bé, nay lại lấy của đút mà làm chuyện phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng".
Thái hậu lại gọi Tô Hiến Thành đến thuyết phục nhưng ông vẫn một mực nói “làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có chịu làm, huống chi lời của tiên đế còn ở bên tai, điện hạ lại không nghe việc của Y Doãn, Hoắc Quan hay sao? Thần không dám vâng lệnh”.
Âm mưu phế lập của thái hậu không thành, bà ta vẫn chưa chịu từ bỏ. Năm 1778, khi hết quốc tang, Đỗ thái hậu lại ban yến cho quần thần ở điện của mình và dụ rằng: Hiện nay, tiên đế đã chầu trời, vua nối ngôi thơ ấu, nước Chiêm Thành thất lễ, người phương Bắc quấy nhiễu. Các khanh chịu ơn nặng của triều đình, nên lo việc của nước nhà. Kế sách ngày nay không gì bằng lập lại thái tử, để vận nước được lâu dài, lòng dân được yên.
Các quan đều chắp tay tâu: “Thái phó nhận mệnh rõ ràng của thiên tử, bệ hạ cũng đã nhiều lần dỗ bảo rồi, bọn thần không dám trái mệnh”.
Tô Hiến Thành lúc bấy giờ lãnh cấm binh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, quần thần lẫn người trong nước đều hết sức nể phục.
Gạt bỏ tình riêng tiến cử người tài
Vì quá lo toan việc nước, sức khỏe Tô Hiến Thành suy giảm, ông lâm bệnh nặng. Những ngày ở trên giường bệnh, quan tham tri chính sự là Vũ Tán Đường (bè cánh của Đỗ thái hậu) được giao ngày đêm hầu hạ phục dịch ông.
Trong khi đó, quan gián nghị đại phu là Trần Trung Tá vì nhiều công việc bận, không có thời giờ rảnh rỗi tới thăm Tô Hiến Thành được. Khi bệnh tình đã nguy kịch, thái hậu họ Đỗ tới thăm và hỏi ông: Nếu thái úy có mệnh hệ gì, ai là người có thể thay thế ông được?
Tô Hiến Thành trả lời: Người mà bình nhật thần biết chỉ có Trần Trung Tá mà thôi.
Thái hậu tỏ vẻ thắc mắc hỏi để nhắc lại ông: Tán Đường ngày ngày hầu hạ thuốc thang, ông không nói tới là làm sao? Còn Trần Trung Tá là kẻ luôn thờ ơ với ông, sao ông vẫn ưa chuộng vậy?
Tô Hiến Thành đáp: Vì thái hậu hỏi người thay thế thần để lo việc lớn của quốc gia, nên thần tiến cử Trần Trung Tá, bởi xét trong triều chỉ có ông ấy làm nổi. Nếu hỏi việc phục dịch cơm nước thuốc thang, ngoài Tán Đường còn ai nữa.
Thái hậu khen Tô Hiến Thành, thầm phục tấm lòng cương trực của ông, không vì chút vị tình mà quên việc nghĩa lớn. Tuy nhiên, về sau, bà ta đã không làm theo chủ ý của Tô Hiến Thành. Cũng từ đây, nhà Lý bắt đầu suy yếu, cho đến khi sụp đổ vào năm 1225.
Tô Hiến Thành mất ngày 12.6.1179 (năm Kỷ Hợi), dưới triều vua Lý Cao Tông. Khi nghe tin ông mất, vua bãi chầu 7 ngày, ăn chay 3 ngày để tang, tỏ rõ sự kính trọng đặc biệt đối với ông. Đời sau, ông được đem ra so sánh với Gia Cát Võ Hầu (Khổng Minh) - vị quân sư nổi tiếng thời Tam quốc. Sau khi ông mất, nhiều nơi lập đền thờ. Điều đặc biệt là cả hai vợ chồng ông đều được nhân dân tôn thờ, bởi thành công của ông có sự đóng góp của bà lúc sinh thời. |