Dân Việt

Nông sản Việt xuất ngoại: Ám ảnh dư lượng kháng sinh, BVTV (Kỳ 2)

Thuận Hải 22/11/2017 09:25 GMT+7
Các loại nông sản của Việt Nam, từ tôm, cá, hạt tiêu hay trái cây như thanh long, bưởi, xoài… đều đã vướng những rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu ra thế giới. Nhiều lô nông sản xuất khẩu đã bị trả về, vì vượt mức dư lượng tối đa đối với các hoạt chất, kháng sinh - rào cản mà các nước đang tìm cách nâng cao, siết chặt hơn.

Đầu năm 2017, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tiêu Việt Nam được một phen hú vía khi Ủy ban Châu Âu (EC) cho biết đang kiến nghị nâng mức mức dư lượng tối đa (MRLs) cho phép của hóa chất Metalaxyl trên hạt tiêu xuất khẩu vào thị trường này từ 0.1ppm lên mức 0.05ppm.

“Tiêu điều” vì rào cản kỹ thuật

img

Chăm sóc vườn dưa lưới trồng theo quy trình chuẩn VietGAP tại Hóc Môn (TP.HCM).  Ảnh: T.H

Mỗi năm, mất hàng trăm nghìn USD kiểm tra dư lượng
kháng sinh

Là một trong đơn vị những xuất khẩu tôm, ông Võ Văn Phục - Giám đốc Công ty VINACLEANFOOD cho biết, doanh nghiệp này mỗi năm phải chi ra ít nhất 700.000USD để kiểm tra hàm lượng kháng sinh cho 7.000 tấn sản phẩm tôm xuất khẩu. Đó là chưa kể, cộng thêm chi phí lấy mẫu kiểm tra ở các thị trường nhập khẩu tôm, nên chi phí của doanh nghiệp bị đội lên rất nhiều.

Việc nâng mức dư lượng cho phép lên 0.05ppm có thể sẽ khiến một khối lượng lớn hạt tiêu của Việt Nam không vào được thị trường EU. Vì hiện tại, EU tiêu thụ gần 40.000 tấn, chiếm 23% tổng lượng hồ tiêu xuất khẩu hàng năm của Việt Nam. Thế nhưng, khi Hiệp hội Gia vị châu Âu (ESA) lấy mẫu, phân tích khoảng 800 mẫu hạt tiêu đen nhập vào EU thì chỉ có 17% số mẫu có mức dư lượng tối đa cho phép dưới 0.05ppm.

Không chỉ bị cản trở vì Metalaxyl, một số vấn đề mới, liên quan tới quy định đối với các hoạt chất, như Pyrrolicidinealcaloids (PA), chất dầu khoáng lây nhiễm trong quá trình đóng gói, vận chuyển hoặc vấn đề chất PAH/Anthraquinone tạo khói nhiễm bẩn vào hạt tiêu trong quá trình sấy, chế biến sai quy cách… cũng khiến doanh nghiệp Việt Nam khó có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường này.

“Không chỉ EU, thị trường Mỹ cũng đang chuẩn bị ban hành hàng loạt quy định mới về yêu cầu chất lượng nông sản nhập khẩu, trong đó có hồ tiêu”, bà Nguyễn Mai Oanh – Tổng Thư ký Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) nói thêm.

Còn với tôm, nhiều năm liền doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu của Việt Nam “vật vờ” tại thị trường Nhật khi cơ quan chức năng nước này quy định mức dư lượng cho phép của các hoạt chất như Enrofloxacin, Ciprofloxacin là 0.01mg/kg, cao gấp 10 lần so với quy định của châu Âu.

Hay như chỉ tiêu Sulfadiazine trên tôm, Nhật Bản quy định chỉ cho phép dư lượng là 0,01ppm. Thế nhưng, đã có nhiều lô hàng xuất khẩu vào thị trường bị phát hiện dư lượng Sulfadiazine vượt mức. Hậu quả là đầu tháng 12.2016, phía Nhật Bản đã phát đi thông báo tăng tần suất kiểm tra chỉ tiêu Sulfadiazine trong các lô hàng tôm đông lạnh nhập từ Việt Nam.

“Mức sống của người dân ở những thị trường nhập khẩu càng cao thì chuẩn đảm bảo an toàn thực phẩm càng được nâng lên. Kéo theo đó, việc họ giảm dư lượng hóa chất, kháng sinh, gia tăng kiểm tra dư lượng hóa chất trong sản phẩm nhập khẩu cũng là điều dễ hiểu” - ông Trần Văn Phẩm, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Sóc Trăng (Stapimex) bình luận.

Học Ấn Độ, kiên trì đấu tranh

Không chỉ nông sản Việt Nam gặp khó khăn với các quy định MRL (ngưỡng hàm lượng tối đa), các nước trên thế giới cũng từng nhiều lần vấp phải “hòn đá” này khi xuất khẩu nông sản, trong đó có Ấn Độ. Bằng cách kiên trì đấu tranh, Ấn Độ đã thuyết phục được nhiều thị trường giảm mức dư lượng cho phép đối với nhiều sản phẩm như chè, gạo.

Công cuộc đấu tranh phá bỏ các hàng rào kỹ thuật vẫn đang được Ấn Độ theo đuổi với các sản phẩm nho và hoạt chất Tricyclazole trên gạo Basmati. Câu chuyện của Ấn Độ được xem như bài học “bằng xương bằng thịt” cho cả nhà quản lý và doanh nghiệp, nông dân Việt Nam. TS Debrabata Kanungo - Chủ tịch Hội đồng MRLs và Tiêu chuẩn an toàn thực phẩm (Bộ Y tế Ấn Độ), cho rằng các nước xuất khẩu nông sản cũng cần đấu tranh với các thị trường nhập khẩu về những quy định MRL chưa hợp lý. Ấn Độ đã có nhiều bài học thành công trong việc này.

Ông Kanungo lấy ví dụ, Iran từng phản đối việc nhập khẩu chè (trà) từ Ấn Độ do có dư lượng của một số thuốc bảo vệ thực vật trong chè nhập khẩu vượt quá MRL của Iran, đồng thời tồn dư một số kim loại nặng trong khi độ tin cậy của giấy chứng nhận GMP do Ấn Độ cấp ở mức thấp.

Trước hoàn cảnh này, Ấn Độ thực hiện đối thoại song phương, thuyết phục nhà nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng theo GAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt) và đánh giá rủi ro không cho thấy bất kỳ tác động nào lên sức khỏe của người tiêu dùng tại Iran.

Phía Ấn Độ cũng kịp thời cung cấp dữ liệu về 5 loại thuốc bảo vệ thực vật để sửa đổi mức MRL hiện có tại Iran cho thực tế hơn. Đồng thời, công nhận giấy chứng nhận GMP có hiệu lực 3 năm, đánh giá chất lượng của các đơn vị xuất khẩu chè bởi Iran.

Tương tự, năm 2011, gạo Basmati của Ấn Độ bị Mỹ ngưng nhập khẩu với lý do dư lượng Tricyclazole trong gạo vượt mức dư lượng NK (IT) mặc định. Trước tình hình đó, Ấn Độ đã phê duyệt GAP trong sản xuất lúa với dư lượng cho phép là 3ppm trong gạo, đồng thời đàm phán đề nghị Mỹ chấp nhận mức dư lượng này. Cuối cùng, phía Mỹ đã đồng ý và nâng IT với gạo Basmati lên mức 3ppm.

“Ấn Độ đang tiếp tục đấu tranh với EU về MRL của hoạt chất Chlormequat chloride trên nho khi phía EU giảm MRL của Chlormequat chloride (CCC) từ 0,05 xuống 0,01mg/kg. Hoạt chất Tricyclazole trên gạo Basmati  được phía EU giảm mức MRL từ 1ppm xuống 0,01ppm” - ông Kanungo cho biết thêm.