Lê Công Hành tên khai sinh là Trần Quốc Khái. Ông sinh năm Bính Ngọ (1606) tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội).
Chuyện kể rằng hồi còn nhỏ, cậu bé Khái đã rất ham học. Cậu học cả khi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng đọc sách. Khái học đến đâu thuộc đến đấy và nổi tiếng hay chữ một vùng.
Năm 18 tuổi, thanh niên trai tráng trong làng đều bị lý dịch bắt đi phu đắp đê sông Hồng. Vì sức yếu không vác nổi những hòn đất to, Khái bị phạt, phải chôn chân ở mặt đê từ sáng đến trưa.
Giữa lúc đó, viên quan coi đê đi qua thấy một thanh niên mặt mũi khôi ngô, lấy làm lạ nên dừng chân hỏi: “Ngươi bị tội gì mà phải chôn chân?”.
Khái lễ phép thưa: “Tôi là học trò, không vác nổi những hòn đất đá to nên bị phạt”.
Viên quan cũng có chút chữ nghĩa, liền cười nói: “Ngươi là học trò à? Ta ra một vế đối, đối được thì ta tha cho”. Khái gật đầu xin vâng.
Viên quan liền đọc: "Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy".
Vế ra khá oái oăm, có tên bốn thứ quả gồm thị, chuối tiêu, hồng và quả cậy. Khái ứng khẩu đối lại ngay: "Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam". Vế đối lại cũng đủ bốn thứ quả quýt, nhãn, bồ quân và cam.
Nghe xong viên quan gật đầu khen ngợi, cho về. Từ đấy, Khái càng nổi tiếng hay chữ.
Sau đó, Trần Quốc Khái lều chõng đi thi và đỗ tiến sĩ đời vua Lê Chân Tông, giữ chức quan to trong triều đình nhà Lê.
Ông tổ nghề thêu Lê Công Hành. Nguồn: Thư viện lịch sử.
Học nghề từ lần đi sứ phương Bắc
Năm Bính Tuất (1646), ông được cử đi sứ nhà Minh. Để thử tài sứ thần nước Nam, quan quân nhà Minh không dẫn ông đi đường chính mà lại dẫn theo đường tắt.
Đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn, ông bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, sai quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng tìm trái cây. Nhờ vậy, đoàn sứ bộ của ta vượt qua quãng đường rừng núi mà vẫn khỏe mạnh như thường.
Sau khi hoàn thành công việc ngoại giao, vua Minh muốn thử tài trí của sứ thần một lần nữa, bèn sai dựng một cái lầu cao chót vót rồi mời ông lên chơi.
Trần Quốc Khái vừa lên tới nơi, quân Minh dưới đất cất thang đi. Ở trên lầu suốt một ngày, ông chẳng thấy ai đem cơm nước đến.
Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy có cái bàn thờ. Trước bàn thờ, hai cái lọng xanh, đỏ trông rất đẹp; trên cao treo bức nghi môn diềm màn thêu rồng phượng và nổi 3 chữ “Phật tại tâm” (Phật ở trong lòng).
Ông Phật Di lặc, bụng to, sơn đen được đặt giữa bệ bàn thờ. Dưới chân bệ, một cái chum to đựng nước cúng và trong góc dựng hai cây tre, một con dao, hoàn toàn không có thức ăn.
Một ngày trôi qua, bụng đói mà không có cơm ăn, chỉ có chum nước, ông nghĩ có nước uống tất phải có cái ăn. Quay ra ngắm bức tượng, tò mò xem thử xem nó làm bằng gì, ông lấy móng tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, lấy tay bóp vụn ra được như bột.
Ông đưa lên miệng nhấm thử thì thấy ngọt, hóa ra tượng làm từ bột bánh khảo (có tài liệu nói rằng tượng nặn bằng bột chè lam). Từ đó ngày hai bữa, ông cứ bẻ dần tượng Phật mà ăn.
Ngồi không buồn quá, Trần Quốc Khái bèn chẻ tre, vót nan, quan sát kỹ cách làm lọng và nhập tâm các chi tiết. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại hạ bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu, rồi lại dùng chỉ đó thêu vào. Lúc hoàn tất, ông ngắm nghía thấy nét chữ thêu giống hệt như cũ.
Một nghệ nhân thêu cờ phướn. Nguồn: Mystown.com
Ăn hết pho tượng và uống gần hết chum nước, Trần Quốc Khái tìm cách xuống. Buổi chiều ngồi ngắm trời mây, thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá, ông nghĩ đến hai cái lọng cắm trên lầu, rồi ôm lọng nhảy xuống đất bình an vô sự.
Trước tài trí ứng xử linh hoạt của sứ thần Đại Việt, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục, bày tiệc lớn tiễn đưa đoàn sứ về nước.
Bằng sự tài trí và ứng xử ngoại giao không ngoan, sau khi về nước, Trần Quốc Khái được phong tước, thăng lên chức Công bộ thượng thư thái bảo, được đổi họ Lê nên mới có tên khác nữa là Lê Công Hành.
Truyền nghề cho dân
Ít lâu sau, Lê Công Hành đem nghề thêu dạy cho dân làng Quất Động rồi sau đó phát triển rộng ra các tỉnh khác, sang cả Bắc Ninh, Hưng Yên.
Bên cạnh đó, ông cũng dạy lại cách làm lọng cho người dân. Để ghi nhớ công ơn ông, sau khi Lê Công Hành mất (năm 1661), nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.
Một số tài liệu cho rằng trước khi Lê Công hành truyền dạy nghề thêu và làm lọng cho dân chúng, những nghề này đã tồn tại ở nước ta. Tuy nhiên, nó phát triển nhỏ lẻ, kỹ thuật khá đơn sơ, quanh quẩn với vài màu chỉ và chủ yếu phục vụ cho vua quan.
Sử sách cũ còn ghi lại ở đời Trần, vua quan ta đã dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, trước năm đi sứ của Lê Công Hành khoảng hơn 350 năm, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyễn một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu (theo Từ Minh Thiện viết trong tập Thiên nam hành ký).