Về nghi vấn GS Nguyễn Đức Tồn “đạo văn” của học trò, nhiều chuyên gia trong ngành ngôn ngữ học đã lên tiếng làm rõ, đề nghị Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước vào cuộc xem xét, trả lời rõ ràng.
GS. Trần Ngọc Thêm - Ủy viên Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước.
Gần đây nhất, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm - Ủy viên Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành ngôn ngữ học cũng đã lý giải tại sao Giáo sư Nguyễn Đức Tồn bị phản ánh đạo văn.
Đạo văn hiển nhiên
Thưa Giáo sư, việc công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Đức Tồn giống nhau đến hơn 100 trang so với luận án, luận văn có được coi là đạo văn hay không?
Nếu dựa trên những minh chứng đối chiếu theo cách sao chụp rất rõ ràng, trong đó nội dung cuốn sách của ông Tồn đúng từng câu từng chữ trong suốt hơn 100 trang với nội dung các luận văn, luận án, bài viết của học trò đã bảo vệ, công bố trước đó, thì việc kết luận ông Tồn đạo văn sẽ là hiển nhiên và tất yếu.
Nếu so sánh, nội dung cuốn sách của GS Nguyễn Đức Tồn có những phần giống từng câu từng chữ trong luận văn, luận án đã công bố trước
Vậy trên thực tế có còn lý do nào khác để giải thích về sự giống nhau này, thưa Giáo sư?
Vào năm 2009 khi Hồ sơ đăng ký Giáo sư của ông Tồn được đưa ra xét ở Hội đồng chức danh Giáo sư ngành, tôi (khi đó với tư cách là ủy viên Hội đồng) đã được giao làm trưởng nhóm (cùng với Giáo sư Nguyễn Đức Chính và Giáo sư Bùi Minh Toán) thẩm định hai đơn thư nặc danh tố cáo ông Tồn đạo văn trong 2 cuốn “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt” (sao chép luận án PTS. của Nguyễn Thuý Khanh) và cuốn “Những vấn đề dạy và học tiếng Việt trong nhà trường” (sao chép bài báo của Nguyễn Thị Thanh Hà).
Do thời gian làm việc chỉ có một đêm nên lúc đó chúng tôi quyết định tạm thời giới hạn việc thẩm định trong cuốn “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc...”. Ông Tồn là người hướng dẫn khoa học cho nghiên cứu sinh Thuý Khanh cho nên tôi đã yêu cầu ông Tồn cung cấp bản luận án tiếng Nga của mình cùng những tài liệu liên quan.
Cuốn sách của Giáo sư Nguyễn Đức Tồn (trái) được cho là đạo văn từ luận án và luận văn của người khác.
Khi đối chiếu các văn bản, chúng tôi nhận thấy nội dung các trang trong chương I luận án của nghiên cứu sinh Thuý Khanh hoàn toàn trùng khít đến từng câu, từng đoạn với những câu, đoạn trong luận án của ông Tồn (mặc dù 2 thứ tiếng khác nhau).
Thư mục tài liệu tham khảo trong luận án của nghiên cứu sinh Thúy Khanh với 90 tài liệu tiếng Nga, tiếng Ukraina, tiếng Ba-lan... chính là bản rút gọn thư mục tài liệu tham khảo trong luận án của ông Tồn. Còn bản đề cương chi tiết luận án của nghiên cứu sinh thì mặc dù ghi tên “Nguyễn Thuý Khanh” nhưng nét chữ là của ông Tồn.
Trước những bằng chứng đó, ông Tồn đã thừa nhận rằng chính ông đã dịch luận án của mình sang tiếng Việt đưa cho nghiên cứu sinh. Trong Bản giải trình gửi Đảng uỷ Viện KHXH Việt Nam, ông Tồn cũng xác nhận: “Chính tôi đã khởi thảo đề cương chi tiết...”; “Tôi phải thân chinh chữa từng từ, từng câu, từng chữ, từng dấu phẩy, dấu chấm, từng lời diễn đạt cho cả 4 bài viết cho Nguyễn Thuý Khanh và sau này chữa cho cả luận án nữa. Vì vậy, văn phong trong các bài viết và luận án của Nguyễn Thuý Khanh chính là văn phong của tôi...”; “Tôi đã cho phép Nguyễn Thuý Khanh sử dụng [luận án của tôi] trong luận án PTS của mình”.
Nghĩa là, trong phần đã được đối chiếu giữa luận án của ông Tồn với luận án của nghiên cứu sinh Thuý Khanh, ông Tồn không đạo văn của nghiên cứu sinh, nhưng đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc hướng dẫn luận án cho nghiên cứu sinh là đã “giúp đỡ nghiên cứu sinh quá mức cần thiết và đã nhắm mắt làm ngơ (nếu không nói là đồng loã) cho nghiên cứu sinh “đạo văn” của thầy.
Năm đó hồ sơ của ông Tồn không được Hội đồng chức danh Giáo sư Ngành thông qua.
Cần làm cho “tâm phục, khẩu phục”
Vậy tại sao sau đó ông Nguyễn Đức Tồn vẫn được phong chức danh Giáo sư?
Đến năm 2009, Hội đồng chức danh Giáo sư cơ sở Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội lại thông qua hồ sơ của ông Tồn một lần nữa.
Hội đồng chức danh Giáo sư Ngành năm 2009 (có 10 thành viên) họp trong 2 ngày 15 và 16.10.2009. Các thành viên Hội đồng đã phát biểu ý kiến thảo luận một cách nghiêm túc và khách quan.
Các ý kiến phát biểu đều nhận định rằng ông Tồn đã có lỗi và đã trả giá trong 7 năm qua, 2 lần hồ sơ không được thông qua; không nên bắt một người phải trả giá cho một sai lầm cũ suốt đời.
Mặt khác, vào năm trước đó (năm 2008), ông Tồn đã vừa mới được Viện KHXH Việt Nam bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học; để bổ nhiệm, Viện KHXH chắc chắn cũng đã cân nhắc chuyện này. Với tinh thần nhân đạo và nhân văn của truyền thống văn hóa Việt Nam, vì sự đoàn kết và phát triển chung của ngành, các thành viên Hội đồng đã đồng ý đưa ông Tồn vào danh sách bỏ phiếu kín. Kết quả là ông Tồn đã được thông qua với số phiếu 10/10.
Sự giống nhau đến kỳ lạ trong sách của ông Nguyễn Đức Tồn (trái) với luận văn của nghiên cứu sinh Nguyễn Thúy Khanh.
Điều này có đồng nghĩa với việc Hội đồng đã kết luận ông Tồn không đạo văn hay không, thưa Giáo sư?
Tôi không nói rằng Hội đồng đã kết luận là ông Tồn không đạo văn. Không có kết luận tập thể chính thức nào như vậy. Nhưng trong phát biểu của các thành viên của Hội đồng đã toát lên tinh thần này.
Tôi nói là “tinh thần”, bởi vì ngồi xem lại biên bản, có thể thấy rất rõ tinh thần chủ đạo là khoan dung, tha thứ, là cái chất “trọng tình” đậm nét của văn hóa truyền thống Việt Nam, nó căn cứ trên một sự cảm nhận và nhận định tổng thể, bằng chứng chỉ là kết luận của các tổ công tác.
Mà các tổ công tác được lập ra để xem xét một vụ việc thì thường chỉ có đúng 1 đêm để làm việc (vì mỗi kỳ họp của Hội đồng chức danh Giáo sư thường chỉ kéo dài trong 2 ngày). Cho nên phải thẳng thắn mà nhận rằng, trong 1 đêm ngắn ngủi ấy, dù có cố gắng đến đâu thì tổ công tác cũng không thể nào làm sáng tỏ hết mọi việc một cách đầy đủ và chính xác được.
Việc sao chép, chú dẫn tư liệu như ông Nguyễn Đức Tồn đã làm có thể coi là vi phạm Luật bản quyền không thưa Giáo sư?
Ai cũng biết rằng theo luật bản quyền, khi sử dụng đóng góp của người khác thì phải chú nguồn. Việc ông Tồn vừa khẳng định ông không “lấy của trò” rồi ngay sau đó lại thừa nhận rằng ông có “chú ở trong sách là hai phần này là tư liệu của học trò” cho thấy rõ ràng là ông đã tự mâu thuẫn với chính mình.
Sự đóng góp của nghiên cứu sinh Nguyễn Thuý Khanh và sinh viên Cao Thị Thu cho cuốn sách của ông Tồn là rất lớn và không thể phủ nhận được. Cái cách mà ông chú nguồn trong sách đã nói lên điều đó.
Trong bản Báo cáo thẩm định năm 2006, tôi đã viết rõ: “Việc cả một chương sách từ 15-20 trang gần như trùng hoàn toàn về nội dung với những trang sách trong luận án, dù là đã nói rõ nguồn và dù là của nghiên cứu sinh do mình hướng dẫn, không thể coi là dẫn lời (vì không có mở và đóng ngoặc kép), cũng không thể coi là dẫn ý (vì không thể có ý nào dài 15-20 trang)”.
Với số trang trùng cao như thế (4 chương, tổng cộng hơn 100 trang), thì nghiên cứu sinh Nguyễn Thuý Khanh (và sinh viên Cao Thị Thu) phải được ghi tên là những đồng tác giả. Chép lại hơn 100 trang, chiếm gần 1/3 toàn bộ cuốn sách, mà không được ghi tên ở trang đầu là những đồng tác giả hoặc thậm chí là những cộng tác viên, thực chất cũng là một dạng “đạo văn”. Như vậy ông Tồn rõ ràng là đã vi phạm luật bản quyền một cách nghiêm trọng.
Theo Giáo sư, ở thời điểm hiện tại, các cơ quan chức năng cần thực hiện các bước thế nào để giải quyết dứt điểm, sáng tỏ mọi việc?
Theo tôi, để cho công bằng, việc này trước hết là cần phải làm sáng tỏ mọi điều để ông Tồn tâm phục, khẩu phục và không thể kêu là bị người khác vu cáo.
Theo kinh nghiệm đợt rà soát phong GS-PGS vừa qua, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục nên giao cho Văn phòng Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước phối hợp với Thanh tra Bộ Giáo dục cử một tổ công tác xem xét đối chiếu lại tất cả mọi thứ có liên quan đến nghi án đạo văn của ông Tồn một cách khách quan và công bằng.
Trụ sở Viện Ngôn ngữ tại phố Kim Mã Thượng
Trong thời gian xem xét, thiết nghĩ cần phải tạm thời đình chỉ tư cách thành viên Hội đồng chức danh Giáo sư Ngành của ông Tồn.
Sau khi mọi việc sáng tỏ, nếu chứng minh được là ông Tồn bị vu cáo thì sẽ khôi phục tư cách thành viên Hội đồng chức danh Giáo sư Ngành của ông và xử lý những người vu cáo.
Còn nếu quả là ông Tồn đạo văn, vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ, vi phạm Luật giáo dục, vi phạm Quy chế đào tạo tiến sĩ, không đáp ứng các tiêu chuẩn của chức danh giáo sư và phó giáo sư thì tôi nghĩ các bộ phận hữu trách của Bộ Giáo dục, Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước và Viện HLKHXH Việt Nam sẽ biết rõ cần phải làm gì.
Trân trọng cảm ơn GS.TSKH Trần Ngọc Thêm