Nguyễn Trật (?-?) là người làng Nguyệt Viên, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa ngày nay). Tương truyền, lúc trẻ cao lớn khỏe mạnh, hiền lành siêng năng, từng đỗ trong kỳ thi Hương. Nhưng sau đó vì học lực hạn chế nên ông quyết bỏ học, không còn mơ màng đến đèn sách, lều chỏng nữa.
Tuy nhiên, như một mối lương duyên kỳ lạ, dù quyết chí dứt hẳn đường khoa cử, nhưng rồi, Nguyễn Trật lại quay lại với giấc mộng khoa cử, sau khi có người khuyên bảo.
Đi thi vì lời khuyên của người lạ
Theo sách Tang thương ngẫu lục, không còn vương vấn con đường công danh, khoa cử, nhưng lúc bấy giờ có một thầy địa lý đi chơi qua làng Nguyệt Yên, thấy Nguyễn Trật hiền lành, lễ độ nên đã khuyên ông nên tiếp tục con đường khoa cử.
Sau khi được thầy địa lý khuyên bảo, Nguyễn Trật lại tìm thầy miệt mài kinh sử, chăm chú việc đèn sách. Năm ông 40 tuổi, triều đình mở khoa thi Hội, Nguyễn Trật một lần nữa miễn cưỡng lều chỏng đi thi.
Dù học không giỏi, nhờ có người quen biết cùng ở trọ một nhà chỉ bảo cho nên ông đã thi đỗ trường nhất, trường nhì và trường ba trong kỳ thi Hội. Đến trường thi thứ tư - trường thi cuối cùng trong kỳ thi Hội, bạn bè của Nguyễn Trật đã rơi rớt hết cả, chẳng còn ai giúp có thể giúp đỡ ông nữa.
Trường thi ngày xưa. Ảnh: Tư liệu
Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng khi đang làm bài ở trường thi thứ tư, ở lều bên cạnh có một thí sinh vật vã ôm bụng kêu đau, hỏi ra mới biết đó chính là viên nho sinh quê ở làng Bột Thái.
Vì có mang theo gừng bên người nên Nguyễn Trật đã đem nước gừng đổ cho nho sinh uống. Để cảm tạ ân nhân, người ấy lấy quyển thi của mình ra và nói: "Đây là bài thi rất đắc ý của tôi nhưng chưa đề tên vào, nay xin tặng ông để đền ơn. Xin ông cõng tôi ra khỏi trường, tôi dù có phải chết cũng chẳng ân hận gì nữa".
Nghe bạn thỉnh cầu, Nguyễn Trật bỏ thi để cõng nho sinh ra khỏi trường. Vì bệnh nặng, không lâu sau đó, nho sinh đã qua đời. Nguyễn Trật nhận bài thi của người này, quay lại trường thi. Vì bài thi làm chưa xong nên ông viết thêm phần cuối, ký tên mình vào bài rồi nộp cho quan trường.
Khi chấm thi, thấy bài của Nguyễn Trật phần đầu viết rất hay, nhưng đến phần sau thì câu cú kém hẳn. Tuy vậy, bài thi vẫn được chấm đỗ, Nguyễn Trật cùng 7 người khác vào dự thi Đình.
Không làm được bài vẫn đỗ tiến sĩ
Đến kỳ thi Đình, vì học lực không giỏi, đề thi khó nên Nguyễn Trật không làm được. Tới quyển số bảy, không biết viết gì, ông nộp nguyên giấy mà không có chữ nào. Cho rằng Nguyễn Trật kiêu ngạo nộp giấy trắng, không chịu làm bài, triều đình rất tức giận, dự tính không treo bảng vàng cho ông đậu.
Trong khi triều đình dự định xóa tên ông khỏi tất cả kỳ thi, xử phạt thì đột nhiên chúa Trịnh Tùng ốm nặng qua đời. Trịnh Tráng lên thay nhưng gặp phải sự chống đối quyết liệt của anh trai là Trịnh Xuân, Trịnh Tráng phải bỏ chạy về Hải Dương rồi cùng vua Lê về Thanh Hóa.
Trong lúc hỗn loạn, Nguyễn Trật có công hộ giá nhà vua Lê và chúa Trịnh. Nhờ có công, cuối cùng ông không còn bị triều đình trừng phạt nữa, lại cho đỗ tiến sĩ.
Bia tiến sĩ khoa Quý Hợi (1623) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám chép rằng "ngày lành tháng tư mùa hạ, Hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, ra bài văn sách ở sân rồng. Trong khi các sĩ tử làm bài, bỗng có Nguyễn Trật làm văn hơi sai thể thức nên chỉ có 6 quyển được khảo duyệt mà thôi. Các quan hữu ty dâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng ngự lãm, lấy Phùng Thế Trung đỗ đầu, sáu người còn lại đều cho đỗ đồng tiến sĩ xuất thân".
Vậy là từ thân phận của một nho sinh phạm trường quy, "phạm tội" kiêu ngạo với triều đình, Nguyễn Trật may mắn thoát nạn, được chấm đỗ tiến sĩ, tên tuổi được lưu danh trên bảng vàng danh giá.
Sau khi được chấm đỗ Nguyễn Trật, ra làm quan cho triều Lê Trung Hưng, ông thăng dần đến chức Công khoa Đô Cấp sự trung. Dù ông không có văn hay, nhờ tính tình hiền lành, thương yêu dân chúng, thanh liêm nên ông được triều đình và người đời rất yêu mến, xưng gọi với cái tên trìu mến: Ông Nghè Nguyệt Viên.