Gerda cho rằng, những chiếc áo dài thời đó là thừa và với kinh nghiệm của một người mẫu, cô ta quyết định nhảy thoát y.
Sự hấp dẫn huyền bí phương Đông
Để thu hút nhiều sự chú ý tới bản thân, cô ta lấy tên mới là Lady Grash Makleod. Được ông bầu của mình hướng dẫn, cô ta đã rảo khắp các dạ tiệc để nhảy thoát y trên bàn ăn.
Cô ta chưa bao giờ là một nghệ sĩ vĩ đại hoặc dù chỉ là một nghệ sĩ có tư cách; những buổi biểu diễn của cô tá đại loại như loại thoát y vũ của Salomé (Salome, một nhân vật trong Kinh Tân Ước, sống vào thế kỷ I SCN và là con gái của Herodias và Herod. Điệu nhảy của Salome tại tiệc sinh nhật bố dượng cô, vua xứ Judea là Herod Antipas quyến rũ đến nỗi Herod Antipas sẵn sàng chia nửa sơn hà cho cô - ND).
Nhưng vấn đề không phải là ở trong điệu nhảy.
Nhục cảm toát ra từ cô ta như những làn sóng radar và khán giả đàn ông không thể rời mắt khỏi cô ta. Tuy không phải là một nghệ sĩ, nhưng cô ta đã có thể làm cái mà những môn đồ của nghệ thuật phương Đông đã làm là truyền đạt thứ tình cảm rạo rực sinh ra trong điệu nhảy giả phương Đông của cô ta.
Tại một trong những buổi dạ hội như vậy, một nhân vật nổi tiếng trong giới kịch nghệ Paris đã nom thấy cô; có thể cô ta đã là nhân tình của ông ấy. Dù sao thì ông ấy đã cho cô ta một lời khuyên nghề nghiệp và giới thiệu cô ta với những người có khả năng giúp đỡ cô.
Vụ giật gân mới bất thần đã làm bàng hoàng và chinh phục cái thế giới ban đêm trơ trẽn, buồn tẻ của Paris. Lady Grash Makleod biến mất. Mata Hari ra đời.
Bảo tàng Guime đã từ lâu nổi tiếng bởi tình yêu của mình với phương Đông và nghệ thuật của nó. Một lần, vào buổi chiều đầu tháng 3 năm 1905, một nhóm nhà đỡ đầu nghệ thuật có lựa chọn được hứa giành cho một cái gì đó mới và chấn động. Họ được mời tới buổi biểu diễn nhảy của một ngôi chùa phương Đông. Nhà bác học rậm râu giải thích biểu tượng tôn giáo của cái sẽ nhìn thấy.
Trong lúc đó thì một mùi hương Đông phương rạo rực lạ thường đang lan toả khắp phòng. Một thứ âm nhạc huyền bí như chui từ ống sáo của thầy phù thuỷ dạy rắn kèm với chiếc màn từ từ kéo lên và một tượng Phật lớn bọc kín đầy những khe hở.
Những kẽ hỡ cứ như làn sóng đu đưa giống như là dưới nó đang có vô số những con rắn đang bò trườn. Còn đây là cái mà anh nhà báo kinh ngạc đã trông thấy khi hồi tưởng lại ngày đó sau nhiều năm sau: “... một người phụ nữ quấn đầy các thứ vải làm bằng vàng bạc óng ánh.
Mềm mại và vô cùng yểu điệu, cô ta bắt đầu nhảy. Những quần áo che thân của cô ta lần lượt rớt xuống cho đến khi người vũ nữ chỉ còn những sợi xích, vòng chuỗi óng ánh làm bằng đá lấp lánh...”.
Đó, như lời giải thích vẫn của nhà chuyên gia rậm râu đó, là truyền thuyết về ngọc trai đen. Câu chuyện nói về một chàng trai đánh cá theo yêu cầu của một công chúa xinh đẹp và dâm dục đã lặn xuống đáy biển nơi anh ta đã chết vì những vết thương do con quái vật canh giữ ngọc trai đen gây ra. Công chúa còn mải say mê ngọc trai mà chàng trai đã cố lấy lên được từ đáy biển mà chẳng hề đau khổ về cái chết của tình lang hôm qua.
Đàn bà khoả thân không phải điều gì mới mẻ đối với Paris. Nhưng điều nhìn thấy vào buổi chiều đó là cái gì đó khác hẳn, là cái gì đó nằm giữa ranh giới tội lỗi và nghệ thuật. Công chúng say mê. Vinh quang của Mata Hari đã bừng sáng chỉ trong một đêm. Gerda đã tìm được mình.
Con mắt buổi sáng
Đó là câu chuyện mà cô ta kể về mình cho những khán giả xúc động và mê muội. Dường như cô ta sinh ra ở Nam ấn Độ, “trên bờ Malabar”, trong giáo phái Bà la môn mà cha cô là một tu sĩ, còn người mẹ trẻ 14 tuổi của cô là vũ nữ trong đền. Bà ta đã chết ngay trong đêm sinh ra cô.
Đứa trẻ được các thày tu Bà la môn nuôi nấng dạy dỗ; chính họ đã đặt tên Mata Hari - "Con mắt Buổi sáng" cho cô gái.
Mata Hari đã nhiều năm học loại hình nghệ thuật mà mẹ cô đã nắm vững đến mức hoàn hảo - thứ nghệ thuật của vũ điệu tôn giáo-khiêu dâm đó.
Khi 13 tuổi, sắp trở thành đàn bà, cô ta đã hiến thân cho những bí mật của đức tin và tình yêu trong đêm lập xuân: ngay trên bàn thờ bằng đá granit của ngôi đền vĩ đại Kanda-Swana cô đã lần đầu tiên nhảy hoàn toàn trần truồng.
Một lần một sĩ quan Anh đã trông thấy cô. Anh ta bị chinh phục bởi vẻ đẹp thân thể và nét u buồn ẩn ước trong đôi mắt cô. Phẫn nộ về việc người vũ nữ trẻ sẽ thuộc về những kẻ đệ tử dâm đãng trong ngôi đền, anh ta đã bắt cóc cô gái và cưới cô làm vợ.
Cảm cái ơn ấy, cô đã sinh cho anh một đứa con trai. Nhưng đứa con đã bị người hầu đầu độc và cô ta, một người mẹ mất trí đã dùng đôi tay mình bóp cổ chết hắn.
Nhưng vận rủi vẫn đeo đẳng cô: chồng cô qua đời vì xúc động mạnh. Cô không thể trở lại bàn thờ của đền mà phải lên đường sang Âu châu để công khai cho tất cả thưởng lãm cái bí mật diệu kỳ nghệ thuật khiêu dâm phương Đông huyền bí.
Đó thật là một câu chuyện mê ly khiến các độc giả nhớ đến những truyền ngắn ghê sợ từ các tạp chí giành cho những cô gái trẻ.
Những người gọi là “các chuyên gia về phương Đông” trong đêm đó ở bảo tàng Guime rất lâu sau này vì một lý do kỳ quặc nào đó đều đã bị mù và câm. Họ không biết sự khác biệt giữa Ấn Độ và Đông Ấn. Thậm chí, họ cũng chả cố đối chiếu nơi sinh của nữ nghệ sĩ - bên bờ Malabar, với cái tên đặc sệt Malaysia hay Indonesia của cô ta.
Và bất cứ chuyên gia nào về lịch sử tôn giáo cũng sẽ bật cười mà nói với các môn đồ trung thành rằng ngôi đền vĩ đại Kanda-Swana không phải nằm ở Ấn Độ, cũng chẳng phải ở Java mà ở Ceylon (tên hiện nay là Sri Lanka).
Rất nhiều trong mớ giả dối và nửa thật nửa giả này được Gerda lấy từ kinh nghiệm của bản thân: chẳng hạn, viên sĩ quan Hà Lan gốc Scotland (chồng của Gerda) đã biến thành chàng sĩ quan đẹp trai người Anh, vân vân.
Nhưng tất cả điều đó không quan trọng. Có ai thèm nghe chuyên gia kia nói đâu. Cô ta mới là điều mới mẻ. Cô ta thật ngon mắt. Và cô ta đã trở thành một hiện tượng giật gân.
Tính gợi dục rõ rệt trong những buổi biểu diễn của cô ta đã dẫn công chúng Paris tới sự thác loạn tình dục. Mata Hari được tạo ra bởi Gerda và cả bởi Paris về đêm nữa.
Một người cùng thời đã hồi tưởng lại những buổi biểu diễn đầu tiên của cô ta:
“Trong cô ta có điều gì đó siêu nhiên. Mata Hari khơi dậy sự thèm muốn trong anh. Cô ta buộc anh phải tin là anh đã thoả mãn sự khao khát, thèm muốn cô ta”.
Một người khác, một nhà quan sát có tính nghệ thuật hơn và tế nhị hơn thì nhận xét:
“Những bước nhảy mê hồn đầy cuốn hút và nhục cảm điên cuồng đã thực sự gây ấn tượng. Từ đôi mắt to, đen, hơi nhắm lại khi cảm xúc dâng trào của cô ta toát ra một ánh sáng siêu nhiên. Đôi chân thon mảnh trang trí bằng những vòng xuyến rung rinh tưởng chừng như những bắp thịt sẽ xé rách làn da. Những người được chứng kiến màn diễn này tưởng như cứ như họ đang chứng kiến một sự lột xác từ người đàn bà thành một con rắn và ngược lại”.
Với những người khác, cô ta tạo được ít ấn tượng hơn nhiều. Một đồng nghiệp, một nhà văn Pháp nổi tiếng, đã viết: “Chả phải cô ta nhảy theo đúng nghĩa của từ này. Nhưng cô ta biết cách cởi quần áo và điều khiển cái tấm thân dài uyển chuyển và kiêu hãnh của mình. Nó làm cả Paris bất động”.
Mata Hari không thoát y hoàn toàn. Ngực cô ta luôn được che bằng vỏ ốc biển hoặc cái gì đó tương tự. Cô ta đã lưu ý đến một nhận xét của một hoạ sĩ nói ngực cô ta không được hoàn hảo cho lắm. Theo cô ta thì cô phải bịt ngực là vì ngực co có vết sẹo sau một lần bị ông chồng vũ phu tàn nhẫn dùng dao găm đâm.
Những người quan sát khách quan thừa nhận cô ta thậm chí chả lấy làm xinh đẹp lắm. Viên sĩ quan, người mà sau này đã tham gia vào vụ hành quyết cô ta, đã nói: “Người ta quá đề cao người đàn bà này. Cô ta có sức mê hoặc, đúng và điều đó rất quan trọng. Nhưng vẻ đẹp ư? Vì lợi ích của lịch sử - không và không!”
Ấy vậy nhưng không phải tất cả đều đồng tình với ý kiến của viên sĩ quan này. Cô ta còn có những phẩm chất, ưu điểm khác nữa cơ mà. Vinh quang của cô càng lớn thì số nhân tình của cô ta càng nhiều. Đó là các vị quân chủ châu Âu làm những chuyến đi ngắn tới Paris; đó là những thành viên nội các Pháp; và đó là các tướng lĩnh đến từ nhiều nước.
Cô ta được nhận vào đoàn balê Monte Carlo. Nhưng sau hợp đồng đã bị huỷ bỏ. Cô ta nhảy ở Viên và các thủ đô châu Âu khác. Xuất nhiện những người bắt chước cô ta. Nhưng cho đến năm 1907 thì Paris đã bắt đầu chán ngán Mata Hari.
(Còn tiếp)