Tờ mờ sáng, dòng sông Hậu bị đánh thức bởi tiếng cười nói, những bước chân khuân vác hàng hóa từ ghe này sang thuyền khác. Dòng sông uể oải trở mình, nước vỗ bì bõm vào mạn ghe, thuyền. Người dân chẳng mảy may để ý sự chuyển động nhỏ ấy. Họ đã quá quen với dòng sông, quen với chòng chành sóng nước, quen với việc mở đầu ngày mới bằng những giọt mồ hôi vất vả rồi.
“Chạy đò lâu nên tôi có nhiều khách quen. Họ nhờ chở đi dọc sông Hậu ngắm cảnh, đi chợ nổi chụp hình, ghé cù lao ông Hổ, tham quan địa điểm ăn uống trên sông... Nhờ nghề này, tôi có thể lo được cho 3 đứa con trưởng thành. Cả đời tôi đã sống dưới sông, đến khi lên bờ, từng tuổi này biết làm việc gì khác? Chuyện nhẹ nhàng chẳng đến tay mình, còn làm hồ, khuân vác..., tôi làm không nổi. Tính tới tính lui, tôi vẫn trở lại với nghề” - chú tâm sự.
Ngày mới của thương hồ thời điểm lũ về...
Trong ký ức của chú, hồi xưa khúc sông này nhộn nhịp lắm, hàng trăm chiếc ghe, đò đậu kín bến. Lúc đó, đường sá còn chưa thông, xe cộ hiếm nên người ta ưa chuộng đường sông. Khi có phà lớn, mấy trăm chiếc đò gom lại còn mấy chục chiếc. Chợ nổi thưa ghe dần. Làm ăn khó khăn, người ta dần bỏ con sông, đi tìm con phố mưu sinh.
Cũng có người kiên nhẫn bám trụ với nghề giống chú Cho cũng có thu nhập lai rai. Thời điểm du lịch miệt vườn sông nước lên ngôi, đón tiếp khách phương xa, khách nước ngoài nườm nượp, con đò của họ chạy qua lại như con thoi, vui như Tết!
6 giờ sáng, ánh nắng còn ngủ. Chiếc đò của chúng tôi trôi trên sông, nghe mát lạnh luồn vào mặt, vào tay. Tôi chợt thắc mắc: lênh đênh thế này, mọi người ăn sáng bằng cách nào? Chú Cho chỉ tôi những chiếc xuồng nhỏ bán thức ăn, thức uống gần đó. Người bán hầu như là phụ nữ, họ loay hoay trong chiếc xuồng nhỏ, với lỉnh kỉnh nồi, bếp, tô, chén.
“Chợ điểm tâm” trên sông phong phú lắm, muốn ăn gì cũng có, y hệt trên bờ: cơm tấm, bún cá, bún riêu, hủ tiếu..., mà giá “bèo” hết cỡ, chỉ mười mấy ngàn đổ lại. Thú vị ở chỗ, người mua cứ việc gọi điện thoại đặt thức ăn rồi ngồi chờ trên ghe, thuyền của mình. Người bán chủ động cặp xuồng lại gần, đưa thức ăn đến tận tay, rồi... rời đi bán chỗ khác.
Khách ăn xong, cứ để tô, dĩa, ly trên ghe mình, người bán quay lại gom sau, hổng sợ mất. Có người chỉ chuyên bán 1 loại thức ăn, có người bán nhiều thứ một lúc. Có người lại vừa bán thức ăn lẫn nước uống. Tùy theo điều kiện kinh tế và khả năng “xoay sở” của bản thân, họ sẽ chọn xuồng to hay nhỏ, chèo tay hay sử dụng máy... phù hợp nhất.
"Chợ điểm tâm" di động trên sông
Một chiếc ghe lớn vừa chạy ngang qua, sóng nước ngả nghiêng như muốn lật cả chiếc xuồng nhỏ của chị Trần Thị Muỗi. Chị chan nước vào tô mì gói cho tôi, mà nước sông dường như muốn “chan” vào xuồng chị.
Chị tỉnh bơ, nghiêng người giữ thăng bằng. Khi mặt sông bình lặng lại, chị đưa tô mì cho tôi, vội vã chèo xuồng qua chiếc đò khác. Ở bên này, tô mì nóng hổi lắc lư theo nhịp của chiếc đò. Tôi ngồi ăn trong cái cảm giác chòng chành, lắc lư ấy, lại nhìn dáng chèo xuồng cong cong, chắn gió của chị Muỗi, nghe lòng mình có chút chênh vênh.
Lúc này, xuồng của bà Nguyễn Thị Vàng (56 tuổi) trờ tới. Nghe tôi hỏi chuyện, bà vừa pha trà đường cho tôi, vừa thở dài: “Tôi bán mấy chục năm nay rồi! Sống theo sông nước cực lắm! Ngày nào trời nắng đẹp, êm dịu như vầy tôi bán được mấy chục ly nước. Những hôm mưa bão, mấy chị em bán thức ăn, nước uống như tôi phải đi tìm chỗ núp. Vậy mà sóng lớn còn đánh mớ ly của tôi bể rổn rảng, nhìn xót xa chịu không nổi. Chiếc xuồng tôi thay mấy xác rồi, con cái lớn hết rồi, nhưng nếu bỏ nghề này, tiền đâu mà sống?”.
7 giờ sáng, trên mấy chiếc ghe lớn, trái cây nằm chồng lên nhau, bình tĩnh chờ đến lượt mình được chuyển đi. Người mua kẻ bán chưa sôi nổi lắm, vì họ còn tận hưởng buổi sáng sớm, bên dĩa cơm đầy thịt và ly cà phê uống dang dở. Thấy nhóm khách chúng tôi đi tham quan, chụp ảnh, họ nở nụ cười thật tươi, xen lẫn chút ngại ngùng. Có khi, họ gọi với sang hỏi chuyện chú Cho, hẹn thời gian chở khách bên bờ sông. Có khi, họ “í ới” chọc ghẹo nhau: “Tạo dáng đẹp đẹp cho khách chụp hình kìa”.
Tôi cất giữ những nụ cười ấy trong máy chụp hình, vội trở về cho kịp giờ làm việc. Nhưng suốt ngày ấy, tôi vẫn cảm thấy bước chân mình chòng chành, nghiêng ngả. Chợt nhớ câu thở dài của chú Cho: “Quen sông nước rồi nên chúng tôi không cảm thấy say sóng gì cả. Nhưng nghề này đắng lắm, nắng gió khiến ai cũng cằn cỗi, già nua hơn tuổi. Tôi yêu nghề, cũng yêu từng khúc sông quê mình. Ngặt nỗi, các con tôi lớn hết rồi, đi làm xa, không đứa nào chịu theo nghề này, không như tôi theo nghề cha mình hồi trước. Sẽ có ngày tôi bỏ con đò, khi không còn sức khỏe nữa. Nhưng còn làm ngày nào, tôi cố gắng làm tốt ngày đó, vừa để kiếm thu nhập, vừa giới thiệu miền quê sông nước của mình đến khách gần xa”.