Một góc Cảng Quy Nhơn (Ảnh minh họa)
Lý giải nguyên nhân Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Tây Nguyên thu hút được ít nhà đầu tư trong nước và quốc tế đến đầu tư, phân tích của VAFI cho biết: “Năng lực bốc xếp của Cảng Quy Nhơn còn nhiều hạn chế. Khả năng mở rộng Cảng có nhưng chậm triển khai. Ngoài ra,hầu như không tổ chức được các tuyến tàu container kết nối thẳng với các trung tâm hàng hải quốc tế như Singapore, Hongkong. Vậy nên,hàng xuất nhập khẩu nếu qua cảng Quy Nhơn thì lại chuyển tải về TP.HCM, Hải Phòng khiến cước phí cao cộng với thời gian lưu chuyển hàng hóa kéo dài. Nếu chuyển hàng về TP.HCM thì cước phí vận tải cũng tăng cao”.
Theo đó, không phải ngẫu nhiên, các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc…trở thành các tỉnh công nghiệp vì thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế.
Điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư là vị trí doanh nghiệp phải gần các khu vực cảng biển lớn, có các tuyền đường biển quốc tế kết nối thẳng với các trung tâm thương mại hàng hải của các quốc gia có nhiều quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam.
“Để Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi, Tây Nguyên có điều kiện phát triển mạnh mẽ công nghiệp nhất là các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày, điện tử… Điều kiện tiên quyết phải là có hạ tầng cảng biển hiện đại để tổ chức các tuyền tàu container quốc tế kết nối thẳng với các quốc gia có quan hệ kinh tế lớn với Việt Nam như HongKong, Singapore, Trung quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản”, kiến nghị của VAFI nhấn mạnh.
Thông số về độ dài một số cầu cảng tại Cảng Quy Nhơn (Ảnh: I.T)
Theo đề xuất của VAFI, cần nhanh chóng thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp tại CTCP Cảng Quy Nhơn bằng đối tác chiến lược mạnh về quản trị và tài chính để nâng quy mô cảng lên 25 triệu tấn/năm, tổ chức được các tuyền tàu container kết nối thẳng với Singapore, Hongkong. Công việc này không thể dựa vào Vinalines.
Thêm vào đó, chỉ cảng Quy Nhơn là không đủ đáp ứng cho nhà đầu tư trong vùng vì có tình trạng cửa quyền, cước phí cao cộng thêm nhiều rủi ro khác. Ví dụ, đình công sẽ làm gián đoạn quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa mà phải xúc tiến xây dựng một khu cảng nước sâu có quy mô khai thác hàng trăm triệu tấn với khả năng tiếp đón tàu có trọng tải lớn lên tới trên 70.000 tấn.
Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện được quy hoạch trên diện tích đất 59ha thuộc KKT Đình Vũ Cát Hải, Hải Phòng (Ảnh: Báo Đầu tư)
Từ đây, VAFI nhắc lại bài học xây dựng cảng Lạch Huyện.
“Nếu không có cảng Lạch Huyện, khu vực các cảng Hải Phòng, Quảng Ninh sẽ quá tải trong vài năm nữa, cước phí vận tải gia tăng, thời gian lưu thông hàng hóa gia tăng. Như vậy, các tỉnh phía Bắc sẽ khó thu hút đầu tư mới từ các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, tốc độ phát triển kinh tế sẽ chậm.
Khu cảng Lạch Huyện được xây dựng theo hình thức PPP và Nhà nước bỏ ra chưa tới 1 tỷ USD để xây dựng đường và cầu Tân Vũ Lạch Huyện, xây kè, đê bao chắn sóng nhưng với việc đầu tư của Nhà nước, mở ra năng lực thông quan tại Hải Phòng sẽ tăng trên 100 triệu tấn, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy đầu tư liên tục từ các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào khu vực các tỉnh phía Bắc.
Đồng thời, việc ra đời của Cảng Lạch Huyện đã làm giảm cước phí bốc xếp, giảm chi phí cho hàng vạn doanh nghiệp”, phân tích của VAFI cho biết.
Theo đó, bài học xây dựng Cảng Lạch Huyện cần áp dụng cho các tỉnh miền Trung và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những khu vực kinh tế chậm phát triển do không có cảng biển nước sâu quy mô lớn. Ở những vùng này, không thể tìm được vị trí cảng biển nước sâu tự nhiên đầu tư ít vốn mà phải vươn ra ngoài biển để đầu tư cảng biển nước sâu với số vốn lớn lên tới hàng tỷ USD.
Đề xuất của VAFI đưa ra lời khuyên: “Việc này doanh nghiệp không thể làm được mà đòi hỏi phải có sự đầu tư ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên 1 tỷ USD cho một khu vực cảng biển nước sâu phục vụ cho cả vùng kinh tế không phải là số vốn lớn đối với nhà nước mà là số vốn mồi rất nhỏ và rẻ.
Phân tích trên đây để thấy rằng Bình Định, miền Trung Tây nguyên muốn phát triển công nghiệp không thể đi theo con đường cũ là dựa vào mô hình quản trị cũ của Cảng Quy Nhơn mà phải có tầm nhìn rộng ra”.
Trả lời câu hỏi: Không có cổ phần nhà nước thì Cảng Quy Nhơn có duy trì được mục tiêu an ninh quốc phòng? Văn bản của VAFI cho biết: Luật Hàng Hải và các bộ Luật hiện hành đều qui định rõ vai trò quản lý nhà nước đối với vùng đất, vùng nước của tất cả các cảng biển. Các đơn vị quản lý Nhà nước như Cảng vụ, Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm dịch, Công An… đều có quyền hoạt động tại các cảng biển và có quyền kiểm soát mọi hoạt động liên quan đến an ninh quốc phòng trong cảng. Ngoài ra, cảng biển không giống như một nhà dân mà người chủ sở hữu có quyền ngăn cản các cơ quan quản lý Nhà nước. Thêm vào đó, thực tiễn thông lệ trên thế giới đều chỉ ra rằng hầu hết tất cả các cảng biển đều do công ty tư nhân vận hành khai thác và đều đảm bảo an ninh quốc phòng. Nếu lấy quan điểm là doanh nghiệp khai thác cảng phải là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ chi phối thì sẽ rất khó phát triển cảng với chất lượng hiệu quả cao, đặc biệt với trường hợp cảng Quy nhơn, từ đó khó thu hút đông đảo doanh nghiệp tham gia đầu tư vào Bình Định. Thực tế hiện nay ở nước ta, tại các khu cảng lớn như Hải phòng, Sài Gòn, Vũng Tàu vai trò của các cảng biển mà Nhà nước nắm chi phối có vai trò rất nhỏ. Đa phần lượng hàng thông quan qua khu vực cảng biển tư nhân và yếu tố này đã liên tục thúc đẩy kinh tế nước nhà phát triển. Trong Kết luận của Thanh Tra Chính phủ có nêu các cơ quan liên quan tổ chức kiểm điểm tiến trình cổ phần hóa cảng Quy Nhơn. Tuy nhiên, đừng chỉ quan tâm đến tiến trình kiểm điểm mà cần xúc tiến ngay công tác cải tổ phương thức quản trị tại Cảng Quy Nhơn bằng việc niêm yết và đấu giá cổ phần. |