Năm Gia Cát Lượng năm 46 tuổi mới có một con trai. Sách “Nghệ văn loại tụ” có chép một thiên “Giới tử thư”, đó là thư của Gia Cát Lượng lúc ông 54 tuổi, răn dạy con là Gia Cát Chiêm 8 tuổi. Gia Cát Lượng nói: “Không đạm bạc thì không tỏ rõ được chí hướng, không yên tĩnh thì không thể gây dựng được chí hướng cao xa”. Sau này, câu này được rút gọn lại thành: “Đạm bạc minh chí, ninh tĩnh trí viễn”, được người đời ái mộ.
Gia Cát Lượng chẳng phải kẻ tầm thường, ông trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, văn thao võ lược đều tinh thông. Tại sao ông lại dạy con còn ấu thơ “Đạm bạc minh chí, ninh tĩnh trí viễn”?
Gia Cát Lượng nói: “Không đạm bạc thì không tỏ rõ được chí hướng, không yên tĩnh thì không thể gây dựng được chí hướng cao xa”. (Ảnh: youtube.com).
Thực ra, “đạm bạc” mà Gia Cát Lượng kỳ vọng không phải là để Gia Cát Chiêm tầm thường chẳng làm nên trò trống gì, trốn người tránh đời, ẩn cư nơi núi rừng hoang dã trong “đạm bạc”, cũng không phải để con lười nhác an dật, uổng phí một đời trong “ninh tĩnh”. Gia Cát Lượng hy vọng con “Đạm bạc minh chí”, khi trong tâm không có tạp niệm, vô dục vô cầu, thì sẽ khiến chí hướng càng rõ ràng, càng kiên định. Mà trong trạng thái thanh tịnh, lý tính, con người mới không bị danh lợi trói buộc, níu kéo, mới không bị những phồn hoa chốn nhân gian mê hoặc, gặm mòn.
Đồng thời, Gia Cát Lượng răn dạy con “Ninh tĩnh trí viễn”, cần duy trì tâm thái tốt, khắc chế tính nóng vội. Khi tâm tĩnh lặng thì mới có thể rộng lớn, sâu sắc như bầu trời cao xa. Người có thể tĩnh lặng được như thế thì tầm nhìn mới lâu dài, cao xa được.
Khi Gia Cát Lượng khuất thế ở gò Ngũ Trượng, con trai ông mới có 8 tuổi. Sau khi Gia Cát Lượng khuất núi, Lưu Thiền đối đãi Gia Cát Chiêm như con ruột của mình. Không chỉ có vậy, Hậu chủ còn hứa gả con gái cho Gia Cát Chiêm. Gia Cát Chiêm đã đảm đương nhiều chức quan khác nhau của nhà Thục Hán.
Mùa thu năm 263, đại tướng của Tào Ngụy là Tư Mã Chiêu lập kế sách cất đại quân chinh phạt Thục, lệnh cho Đặng Ngải dẫn hơn 3 vạn quân tấn công Khương Duy, lệnh cho Thứ sử Ung Châu là Gia Cát Tự dẫn hơn 3 vạn quân cắt đứt con đường rút lui quân Thục, lệnh cho Chung Hội dẫn trên 10 vạn quân chủ lực tấn công Hán Trung, bổ nhiệm Vệ Quán làm giám quân. Rất nhanh chóng, Chung Hội đã phá được Hán Trung, Khương Duy phải lùi về cố thủ ở Kiếm Các, hai bên giữ thế giằng co.
Tháng 10 năm đó, Đặng Ngải dẫn tinh binh, theo đường mòn Âm Bình tấn công Thục. Sau khi Đặng Ngải đến Giang Du, tướng trấn giữ của Thục Hán là Mã Mạc đầu hàng. Đặng Ngải dẫn quân gấp rút tấn công Phù Thành và Cẩm Trúc. Gia Cát Chiêm trấn giữ Phù Thành án binh bất động. Hoàng Sùng nhiều lần khuyên Gia Cát Chiêm mau chóng xuất quân chiếm giữ các nơi hiểm yếu trước, ngăn chặn quân địch tiến vào đồng bằng. Đáng tiếc Gia Cát Chiêm lưỡng lự không quyết, cũng không nghe theo kế, Hoàng Sùng vì thế nhỏ lệ.
Đặng Ngải thế mạnh, tiến quân như chẻ tre. Gia Cát Chiêm nói: “Ta trong triều không diệt trừ Hoàng Hạo (hoạn quan lộng quyền), ngoài triều không khắc chế Khương Duy (lúc đó Khương Duy thế cô, không địch nổi nên trá hàng, Gia Cát Chiêm tưởng thật), tiến quân không giữ được Giang Du, ta có 3 tội, còn mặt mũi nào trở về đây”. Cuối cùng rút lui trấn thủ Cẩm Trúc. Hoàng Sùng khích lệ thuộc hạ tử chiến, cuối cùng tử trận.
Gia Cát Chiêm thề tử chiến chống cự, nhưng do quân ít, tương quan một trời một vực, nên cuối cùng tử trận. Con của Gia Cát Chiêm là Gia Cát Thượng mới 15 tuổi, nghe tin cha tử trận, vô cùng đau đớn, lập tức phi ngựa múa kiếm xông thẳng vào quân Ngụy, khảng khái xông vào chỗ chết.
Gia Cát Chiêm vì nghĩa tuẫn nạn khiến quân địch cũng khâm phục. Không lâu sau, Đặng Ngải tiến quân đến Thành Đô, Hậu chủ Lưu Thiền đầu hàng, nhà Thục Hán diệt vong.
Sự tích ba đời Gia Cát Lượng, con trai, cháu trai trung nghĩa tuẫn quốc đã được sử sách lưu danh muôn thuở.