Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, khi làm quan, Nguyễn Văn Hiếu được dân thương mến. Biết tin ông đến trị nhậm, bọn trộm cướp nói với nhau rằng: Quan Trấn thủ nhân hòa, ấy là phật sống, nên kính cẩn mà lánh đi. Đó là giai thoại có một không hai trong sử Việt.
Đạo tặc tự ý tránh xa
Năm 1821, vua Minh Mạng đi tuần Bắc Hà, nghe tiếng dân chúng ca ngợi Nguyễn Văn Hiếu làm quan thanh liêm, vua thăng chức vượt cấp, thưởng một ống nhòm mạ vàng, một thanh gươm mạ vàng, một khẩu súng có nạm chữ vàng.
Cuối năm 1823, khi được cử làm trấn thủ ở Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay), các quan viên địa phương đến yết kiến ông. Một thổ hào đem lễ vật đến ra mắt, ông Hiếu lấy lời ôn tồn từ khước.
Thổ hào ra về, một thuộc lại của Nguyễn Văn Hiếu lẻn theo, dọa nạt ông này để lấy lễ vật. Ông biết được, giận lắm, lập tức đem ra chém. Các quan đều can gián, nhưng ông không nghe. Sau đó, ông dâng sớ xin chịu tội với triều đình, bị giáng ba cấp, nhưng vẫn cho lưu lại chức cũ.
Cảnh xử án thời Nguyễn: Ảnh minh họa.
Dù nghiêm khắc, Nguyễn Văn Hiếu rất thương dân, không hề cứng nhắc. Một lần, ông cùng các đồng liêu xét án. Thấy tên trộm đã thú tội rồi vẫn còn bị tra tấn, ông nói rằng: "Chúng vì cùng cực nên phải làm việc gian phi, đêm khuya soi tường khoét vách, khó nhọc mới lấy được tiền người ta. Nay nó đã nhận tội, thì cứ chiếu theo luật mà trị, hà tất phải vẽ vời thêm làm gì?
Thử hỏi ở các nha môn, có những kẻ trên nhà cao, ngồi nệm, dựa gối, giữa ban ngày, vẫy ngòi bút làm tiền người ta không chút khó nhọc, các người ấy sánh với bọn ăn trộm kia, tội ai nặng hơn?".
Bàn về gia cảnh của ông, sách Đại Nam liệt truyện chép rằng nhà quan mà xơ xác, lương bổng năm nào chỉ đủ chi dùng cho năm đó, chẳng dư dả gì. Ông thường nghiêm cấm người nhà không được tự ý giao thiệp với người ngoài. Ngày lễ, tết, ai biếu gì cũng chối từ.
Không quên thời cắt cỏ thuê
Theo sách Gò Công xưa, Tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu (1746-1835) quê ở Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1785, ông gia nhập quân Đông Sơn dưới quyền của Võ Tánh - hổ tướng nổi tiếng của Nguyễn Ánh. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long giao cho Nguyễn Văn Hiếu làm trấn thủ Bình Định, rồi điều ra làm trấn thủ Sơn Nam Hạ (Nam Định ngày nay).
Nguyễn Văn Hiếu xuất thân võ biền, nhưng có phong thái của một nho thần. Một lần, các vị tân khoa đến nhà chào, ông tiếp đãi rất ân cần, rồi nói: "Mười năm đèn sách mới có ngày nay, tôi xin mừng cho các thầy. Nhớ ngày sau được bổ dụng làm quan, cũng nên giữ gìn như lúc tân khổ, chớ có xa xỉ quá để mang tiếng xấu cho thân danh, phụ ý tốt của triều đình".
Minh Mạng - vị vua rất yêu quý đức thanh liêm của Nguyễn Văn Hiếu.
Có lần, người vợ đem chuyện gia cảnh khó khăn nói với chồng, ông cười bảo: "Bà không nhớ lúc cắt cỏ thuê sao? Lúc ấy, mỗi khi đi đâu, vợ chồng phải đổi áo mà mặc, chỉ lo đủ cái ăn cho mỗi ngày; nay sánh với xưa, đã hơn gấp mấy lần, thế mà còn muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu sao?" Từ đó, vợ ông không dám đem chuyện tiền tài thưa với ông nữa.
Nguyễn Văn Hiếu làm quan trải 4 đời vua Nguyễn là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Vốn là vị quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Năm Ất Tỵ (1835), Nguyễn Văn Hiếu mất. Đến thời vua Tự Đức (1851), ông được thờ ở miếu Trung hưng Công thần tại kinh đô Phú Xuân - nơi dành cho các công thần nhà Nguyễn.
Cũng dưới triều Tự Đức, một hôm, nhà vua phê vào giấy long đằng hai chữ Nguyên Lương, rồi sai người đem treo tại từ đường nhà ông. Từ đó, con cháu của ông đổi tên lót là Nguyễn Lương thay vì Nguyễn Văn Hiếu.
Theo sử sách, ông Nguyễn Văn Hiếu sinh ra ở Nam Bộ nhưng có gốc gác miền Trung, cháu 12 đời của Nguyễn Xí - danh tướng nổi tiếng có công giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược. Nguyễn Văn Hiếu là con trai của Chưởng y cấm vệ Nguyễn Văn Đán. Dù xuất thân trong gia đình quan lại, gia cảnh Nguyễn Văn Hiếu lại rất nghèo thuở nhỏ ông phải cắt cỏ thuê để kiếm sống qua ngày. |