Theo lẽ tự nhiên, loài ong chỉ làm mật vào một khoảng thời gian nhất định trong năm, tùy vào địa bàn sống của chúng. Thông thường là vào mùa xuân và mùa hè, thời điểm trăm hoa đua nở, có nhiều nguồn mật, phấn hoa. Nhưng với những người thợ nuôi ong lâu năm, họ đã sáng tạo ra cách để đàn ong làm mật quanh năm từ nguồn hoa tự nhiên.
Hoa của cây ngũ gia bì tạo ra một trong những loại mật ong có giá trị cao nhất ở nước ta.
Mùa ong làm mật, mùa dân bản ấm no
Vân Thủy là một xã miền núi thuộc huyện Chi Lăng (Lạng Sơn), trong vùng có nhiều cánh rừng nên khí hậu rất trong lành. Chính vì vẫn giữ được nguồn hoa rừng tự nhiên phong phú, nghề nuôi ong ở đây rất phát triển, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân.
Đặc biệt, rừng ở Vân Thủy mọc nhiều cây ngũ gia bì (người dân địa phương còn gọi là cây chân chim, mạy tảng). Loại cây theo dân gian có tác dụng như một loại thuốc, giúp làm giảm các cơn ho, phòng ngừa bệnh ung thư, giúp giảm huyết áp…, đặc biệt mật ong làm từ hoa loại cây này rất quý. Cây chỉ ra hoa một mùa, vào cuối năm. Lúc này, thời tiết lạnh và khô hanh, cả rừng chỉ có loại cây này nở hoa nên mật ong hoa ngũ gia bì càng có giá trị.
Mật ong hoa ngũ gia bì có màu vàng nhạt, mùi thơm, đặc sánh và có vị hơi đắng về sau.
Dựa vào đặc điểm đó, người dân Vân Thủy thường khai thác mật ong vào thời điểm cuối năm, với hai loại mật chính: mật hoa rừng và mật ong hoa ngũ gia bì (chỉ khai thác vào tháng 11 và 12 dương lịch). Mật ong hoa ngũ gia bì có vị ngọt thanh pha chút đắng nhẹ về sau; màu vàng nhạt, đậm đặc rất đặc trưng, được nhiều người biết đến và đặt mua làm quà.
Giá trị mật ong ở đây cao ngoài sự đặc biệt của nguồn hoa, còn do khác biệt ở thời gian thu hoạch. Giai đoạn từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, ong nơi khác thường “ngủ đông” lại chính là cao điểm ong Vân Thủy cho mật. Giá mật ong hoa rừng có giá 350.000 đồng/lít, còn mật hoa ngũ gia bì lên đến 500.000 đồng/lít, đắt vậy nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu.
Để tăng hiệu quả sản xuất mật, từ việc phát triển nhỏ lẻ, các gia đình nuôi ong ở Vân Thủy đã liên kết lại, thành lập HTX Nuôi ong mật Vân Thủy; đăng ký thương hiệu, đóng chai, xây dựng nhãn mác... Anh Hoàng Văn Phương, Giám đốc HTX cho biết: Hiện tại, HTX đang có 22 hội viên, chủ yếu ở các thôn Nà Phước và Nà Pất với tổng số 500 đàn ong. Trong năm 2018, có nhiều hộ thành viên quay được trên 100 lít mật, thu từ 40 đế 50 triệu đồng.
“Du mục” cùng đàn ong
Ông Doãn Văn Tiến là người có thâm niên nuôi ong, ở đâu có nhiều hoa rừng quý là ông đem ong đến khai thác mật.
Ở Vân Thủy và các xã lân cận, có nhiều hộ gia đình dù không hề nuôi ong nhưng trong vườn nhà lại san sát hàng trăm thùng ong. Đó là ong của các thợ nuôi chuyên nghiệp ở các tỉnh lân cận như: Bắc Giang, Thái Nguyên, Hải Dương... “gửi nhờ” để “ăn” hoa rừng xứ Lạng.
Khi rừng hết mùa hoa, ong lại được các chủ di chuyển đến những vùng khác để làm mật. Lối nuôi ong “du mục” này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng là những hành trình rất gian nan. Hiểu đặc tính của ong thôi chưa đủ, còn phải đảm mê, tâm huyết và sáng tạo mới có thể điều khiển được “đội quân” đông đảo này.
Sau khi hỏi thăm một gia đình ở Vân Thủy vẫn thường cho đặt nhờ ong, chúng tôi xuôi quốc lộ 1A xuống tỉnh Bắc Giang, tìm về huyện Yên Thế, một địa phương có phong trào nuôi ong khá mạnh. Nơi đây cách Vân Thủy gần 90 cây số, nhưng đó chưa phải khoảng cách xa nhất mà thợ nuôi ong ở đây đưa ong đi tìm hoa làm mật.
Con đường bê tông quanh co dẫn chúng tôi đến nhà ông Doãn Văn Tiến, ở thôn Tân Sỏi, xã Đồng Tâm. trong vườn vải, cam, bưởi đang độ nở hoa tỏa hương ngào ngạt, một không khí vô cùng náo động, khẩn trương được tạo nên bởi hàng triệu con ong, trong những thùng nuôi xếp đầy dưới các gốc cây.
Chủ nhân của chúng, ông Tiến cũng đang hối hả không kém: vừa mở nắp tổ rồi hun khói vào để ong bay tản ra, vừa nhẹ nhàng, khéo léo nâng từng cầu ong lên, lấy chổi lông quét những con ong còn bám hai bên mặt, ông vừa soi soi, nhìn nhìn rồi lại cẩn thận xếp vào thùng...
Kiểm tra sức khỏe của ong chúa và ong thợ.
Ngừng tay pha trà mời khách, ông Tiến kể: Tính đến nay tôi đã trên 20 năm nuôi ong. Cũng có lúc học theo người ta nuôi gà, lợn mà bỏ bê chúng, nhưng giờ với tôi nuôi ong là cái nghiệp rồi. Vài ngày không nghe tiếng chúng bay, không bị chúng đốt thấy người thiếu vắng lắm.
Từ khi nuôi ong theo hướng kinh tế, ông Tiến chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu tập tính của ong. Với ông, chăm ong cũng cẩn thận như chăm con thơ vậy. “Vào khoảng tháng 2, tháng 3 hằng năm, khi thời tiết ấm áp, ong bắt đầu mùa sinh sôi nảy nở. Người nuôi kiểm tra số lượng thùng ong, quân số các thùng để tiến hành nhân đàn. Thùng nào đông thì tách làm 2, 3 đàn, mỗi đàn khoảng 4 cầu ong (tùy số lượng ong thợ). Quan trọng nhất là kiểm tra ong chúa và chúa non để thay thế hoặc loại bỏ, chia đàn kịp thời, tránh việc ong bay đi”, ông Tiến cho biết.
Trước khi bước vào vụ khai thác mật, ông Tiến chỉ duy trì khoảng 350 thùng ong, còn lại ông đem bán với giá trung bình từ 800 đến 1 triệu/đàn. Mỗi năm, ông bán được khoảng trên 200 đàn ong và thu hoạch trên 400 lít mật, sau khi trừ chi phí cho ông thu nhập trên 200 triệu đồng.
Quanh năm, ông Tiến cùng đàn ong của mình rong ruổi khắp các tỉnh để tìm nguồn mật. Đầu vụ, ong làm mật hoa vải, nhãn ngay tại vườn nhà cho đến hết tháng 4. Tháng 5,6 ông Tiến đưa ong lên vùng Suối Mỡ của huyện Lục Nam (Bắc Giang) để ăn hoa rừng; tháng 7,8 cho đến cuối thu thì chuyển về về huyện Tân Yên hoặc sang tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn ăn hoa bạch đàn, hoa keo...
Vân Thủy - vùng hoa quan trọng nhất của ông Tiến sẽ là nơi ong làm mật vụ cuối năm, từ tháng 10 cho đến 12. Đây cũng là thời điểm “đánh mật” giá trị nhất.
Cầu ong “đẫy” mật sắp được quay.
Trước mỗi khi đến địa điểm mới, người nuôi ong phải đi “thám thính” để tìm nhà và tính toán thời gian hoa nở, trữ lượng mật… Khi đêm xuống, đàn ong đã vào tổ thì chủ ong nút cửa tổ lại, sau đó đưa lên xe tải để di chuyển. Tùy thuộc vào kết quả khảo sát mà họ quyết định đưa bao nhiêu đưa ong đi.
Ở nhiều nơi, người dân không hiểu sợ ong nuôi đến lấy hết phấn hoa làm cây đậu quả kém, xua đuổi không cho vào. Thậm chí, chuyện bị thanh niên địa phương uống rượu say quấy phá, bắt nộp “lệ phí”..., cũng xảy ra nhiều.
Nhưng ông Tiến không bao giờ gặp việc như vậy. Nhiều năm đưa ong đi “chinh chiến” khắp nơi giúp ông có bí quyết “dân vận” khéo với người dân bản địa.
Nhiều năm đưa ong đi “chinh chiến” khắp nơi giúp ông Tiến có bí quyết “dân vận” khéo với người dân bản địa.
“Bà con miền núi thật thà nên mình phải tạo sự tin tưởng để họ coi như người nhà, coi ong của mình như tài sản của họ. Ngoài việc trông coi, những khi mình không ở đó, họ giúp chia tách đàn ong, che chắn khi mưa bão, rồi những năm sau vẫn cho nhờ... Người dân chẳng ai lấy tiền, họ chỉ nhận vài lít mật mỗi dịp chủ ong thu hoạch mà thôi”, ông Tiến tâm sự.