Quê tôi nghe rất giàu có - ấp Phú Quý (xã Thanh Tùng, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau), nhưng từ thời khẩn hoang và cho đến tận bây giờ, bà con trong xóm vẫn quen gọi là Ông Đơn. Đây là tuyến kênh dài gần 10km chạy qua địa bàn ấp, nối sông Vàm Đầm với sông Thanh Tùng.
Một thời ký ức "vương quốc cá đồng"
Xuất xứ của tên gọi nghe buồn tẻ này, chính những lão nông tri điền tại địa phương cũng không lý giải được.
Cậu tôi bảo, thời Pháp thuộc, quê tôi là vùng nê địa, trên tuyến kênh dài heo hút chỉ có vài nóc nhà và hầu hết là bà con thân tộc đến khai khẩn lập nghiệp. Rồi họ sinh con, đẻ cháu, mở rộng đất đai để canh tác, dân cư dần đông hơn.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, xứ này có khoảng 25 hộ dân, tất cả đều một lòng theo cách mạng. Mặc cho bom cày, đạn xới, những cuộc hành quân càn quét, tìm diệt… liên tiếp của địch, căn cứ của xứ ủy, tuyên huấn khu, các cơ quan mặt trận đóng rải rác trên tuyến kênh này được người dân tìm mọi cách để bảo vệ an toàn.
Họ sẵn sàng cống hiến ruộng, vườn, nhường cơm sẻ áo… lo cho vùng căn cứ kháng chiến.
Kết thúc kháng chiến, hòa bình lập lại, người dân Ông Đơn tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng trong học tập, lao động sản xuất, đoàn kết xây dựng quê hương.
Cách đây không lâu, muốn về Ông Đơn, chúng tôi phải đi cao tốc ghé chợ Vàm Đầm, từ đó thuê đò dọc chạy vào, rồi đi trên đường đất trơn trợt.
Nhưng qua rồi cái thời “sang sông phải lụy đò”, đường về quê tôi giờ đã có tuyến lộ bê tông nối với tuyến tỉnh lộ về trung tâm xã Thanh Tùng và các xã lân cận, bộ mặt nông thôn quê tôi thay đổi từng ngày.
Ngồi trên xe, suy nghĩ miên man nên đường về quê như ngắn lại. Thằng em họ bộc bạch: “Cứ mỗi lần về tới đầu xóm là em nghe lòng xốn xang, dẫu rằng bây giờ có lộ giao thông, mình về thường hơn nhưng cảm giác vẫn như lần đầu. Nè, qua khỏi đất nhà cô Ba một đỗi là đến nhà cậu Tư Đoàn, điểm đến của mình đúng không”.
Nó vừa dứt lời thì đã nghe tiếng anh Tuyên - con cậu Tư, gọi ơi ới: “Ê, tụi bây mới về hả, ghé nhà làm thủ tục đi, anh rước bà xã chút về lai rai nghen”.
Cái “thủ tục” mà anh Tuyên nói hàm ý là thắp nhang bàn thờ ông bà vì nhà cậu Tư như là từ đường của dòng họ và phía trước có khu gia mộ. Thấy chúng tôi, cậu Tư trách “Tết không thấy về, Thanh minh cũng chẳng thấy mặt, tao tưởng tụi bây quên đường về quê rồi chứ”.
“Năm nay, Tết con trực cơ quan, còn Thanh minh thì phải lo tránh dịch COVID-19. Quê hương là chùm khế ngọt mà quên sao được cậu”- thằng em họ của tôi giả lả.
Sau đó, chúng tôi vào nhà thắp nhang bàn thờ gia tiên, rồi ra khu gia mộ thắp nhang. Khi chúng tôi trở vào trong sân nhà thì anh Tuyên cũng vừa về đến: “Tụi bây về bất ngờ nên không có gì để thết đãi, may mà trên đường về tao thấy xe bán thịt, ghé mua miếng thịt ba rọi về chiên nước mắm. Ông Đơn bây giờ “mồi” khó khăn lắm, chớ không như trước đây, cá, mắm bao la”.
Hồi đó... “vương quốc cá đồng”
“Hồi đó, Thanh Tùng được ví như “vương quốc cá đồng”, mà gọi chung vậy thôi, thực ra nhiều nhất là ở xóm Ông Đơn. Hồi đó ở đây cá thiên nhiên nhiều vô kể, mùa hạn ở thềm đìa cá ục như cơm sôi. Chuẩn bị làm đìa, thanh niên mặc quần xà lỏn, lội xuống vét cỏ, khi lên bờ, chỉ cần giũ cái quần là đủ cá bổi cho bữa ăn vì nước ao càng bị quậy thì cá càng tập trung lại.
Hồi đó, các loài bò sát cũng rất phong phú và đa dạng, cứ mỗi lần đốt đồng là rùa vàng bò lổm ngổm, kỳ đà đôi khi nằm vắt cổ chết khô trên chảng ba cây tràm, trăn, rắn lễnh nghễnh ngoài đồng…” - cậu Tư cứ liên miên nhắc “hồi đó”, gợi tôi nhớ lại những câu chuyện mẹ kể khi tôi còn nhỏ…
Xứ Ông Đơn được thiên nhiên ưu đãi cho đất đai trù phú. Phía trước, dọc theo tuyến kênh là vùng nước mặn, nơi trú ngụ và sinh sản của vọp, sò, ốc len, ba khía… dưới những tán rừng đước dày đặc. Còn bên trong là vùng nước ngọt, cây ráng, tràm mọc um tùm che chắn cho các loài bò sát sinh trưởng.
Mùa nước “rọt” (mùa khô cận Tết) đồng đất ở Ông Đơn đâu đâu cũng thấy cá. Mùa tát đìa, người ta phải đào những cái ao cạn, dùng ni lông lót dưới đáy để rọng cá. Mỗi khẩu đìa tát lên, hàng chục thanh niên trai tráng gánh cá chuyển về nhà, từ sáng sớm đến tối mịt mới xong.
Có lẽ do cá đồng quá nhiều nên hầu như không ai ăn cá dầy, còn cá bổi phải 3-4 con/kg thì mới ăn, riêng cá rô thì chỉ ăn rô “mề”; rắn nhốt đầy khạp để bằm nấu cho… heo ăn, cua bắt được chỉ bẻ cặp càng luộc ăn còn mình cua bỏ lại dưới sông, rạch…
Nhớ có lần bác Hai tôi bảo: “Hồi đó, cá đồng không chỉ là thực phẩm nuôi sống người dân mà còn là nguồn giao thương, trao đổi với các mặt hàng hóa thiết yếu khác. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, quá trình xây dựng, phát triển quê hương, cá đồng tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cây lúa, cá đồng đã làm nên diện mạo cho kênh Ông Đơn nói riêng và xứ Thanh Tùng nói chung!”.
Song, những năm đầu của thế kỷ 21, tỉnh Cà Mau đã quy hoạch vùng và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản, nghề nuôi tôm phát triển nhanh chóng, trở thành thế mạnh kinh tế của tỉnh.
Và bị cuốn theo cơn lốc đổi đời, người dân Ông Đơn đã tự phát nuôi tôm không theo quy hoạch chung của tỉnh. Vườn cây, đồng ruộng được đào đắp thành những vuông tôm, nước mặn tràn vào, con cá đồng… biến mất.
Nguồn lợi từ con tôm đã làm thay đổi kinh tế hộ gia đình, diện mạo nông thôn ở Ông Đơn cũng khởi sắc hơn. Tuy nhiên, nuôi trồng ồ ạt, nguồn nước ô nhiễm, dịch bệnh… tôm chết, thất mùa, nguồn thu nhập chính bấp bênh, không ít gia đình ở Ông Đơn lâm cảnh túng quẩn.
Có thể nói, sau những biến động của thời cuộc, của thiên nhiên, xứ Ông Đơn đã có những đổi thay, sáng sủa hơn, mới mẻ hơn nhưng theo đó vẫn có những vấn đề tồn tại đáng suy ngẫm.