Dân Việt

Nhiều sai sót khi đưa ra các tiêu chí xác định Việt Nam thao túng tiền tệ

Huyền Anh lược ghi 22/12/2020 13:41 GMT+7
Các tiêu chí đánh giá Việt Nam thao túng tiền tệ mà Mỹ áp dụng vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của các đối tác thương mại, sự thừa nhận từ các tổ chức quốc tế và cộng đồng chuyên gia cũng như các Viện Nghiên cứu uy tín trên thế giới.

Ngày 16/12/2020, Bộ Tài chính Mỹ đã xác định Thụy Sĩ và Việt Nam thao túng tiền tệ cùng với 10 nền kinh tế (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ý, Singapore, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan và Ấn Độ) thuộc diện theo dõi với cáo buộc rằng Việt Nam đáp ứng cả 3 tiêu chí về thặng dư thương mại song phương với Mỹ, thặng dư cán cân vãng lai và mua ròng ngoại tệ. Đây là lần đầu tiên, Mỹ "gắn mác" thao túng tiền tệ đối với Việt Nam.

Mỹ đã có sai sót khi đưa ra các tiêu chí xác định Việt Nam thao túng tiền tệ? - Ảnh 1.

Mỹ xác định Thụy Sĩ và Việt Nam thao túng tiền tệ mang tính chủ quan, chưa nhìn nhận đa chiều

Mỹ "gắn mác" Việt Nam thao túng tiền tệ - mang tính chủ quan, đơn phương

Nhìn nhận về vấn đề này, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV cho rằng, việc "gắn mác" Việt Nam thao túng tiền tệ là một việc làm mang tính chủ quan, đơn phương từ phía Bộ Tài chính Mỹ.

Hơn nữa, động thái này của Bộ Tài chính Mỹ chưa nhìn nhận đa chiều và chưa xét đến đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam cũng như những khuyến cáo của các tổ chức quốc tế (như WB, IMF) đối với Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển nhanh, độ mở cao và cần thiết phải có các công cụ (phù hợp thông lệ quốc tế) cho phát triển kinh tế bền vững, an toàn, có khả năng chống chịu với những cú sốc từ bên ngoài.

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV chỉ rõ sự chủ quan, đơn phương và thiếu đa chiều của Bộ Tài chính Mỹ khi xác định Việt Nam thao túng tiền tệ qua 3 tiêu chí cụ thể.

Thứ nhất, việc điều hành tỷ giá những năm qua của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) theo nhóm nghiên cứu đó là, trong khuôn khổ chính sách tiền tệ chung nhằm thực hiện mục tiêu nhất quán là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng.

Cụ thể, kể từ năm 2016 đến nay, NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo biến động của rổ tiền tệ các nước có quan hệ kinh tế lớn với Việt Nam. Chính sách điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt cùng với chính sách tài khóa thận trọng (kiểm soát nợ cộng và thâm hụt ngân sách) đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020.

Theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia BIDV, giá trị thực của VND tăng khoảng 2,6% trong 3 năm (2017-2019). Theo đó, cán cân thương mại của Việt Nam với Mỹ có thể bị tác động tiêu cực do đồng VND tăng giá so với USD trong 3 năm 2017-2019, chứ không hẳn là tạo lợi thế xuất khẩu cho Việt Nam. Vì vậy, việc Bộ Tài chính Mỹ khẳng định đồng VND bị định giá thấp có tạo ra lợi thế xuất khẩu cho Việt Nam cần phải được xem xét kỹ lưỡng và chính xác hơn.

Thứ hai, thặng dư thương mại song phương với Mỹ và thặng dư cán cân vãng lai là kết quả của rất nhiều yếu tố liên quan tới đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. VND giảm giá không hỗ trợ nhiều cho xuất khẩu (từ đó hỗ trợ cán cân thương mại thặng dư) do đặc thù cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Đó là, xuất khẩu nhiều thì cũng đồng nghĩa với nhập khẩu nhiều. Điều này là do hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam do khối doanh nghiệp nước ngoài (FDI) chi phối.

Theo số liệu tổng hợp từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, khối doanh nghiệp này chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu, 59% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2017-2019. Theo đó, để sản xuất hàng xuất khẩu, do công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn yếu, nên khối doanh nghiệp FDI vẫn phải nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào cho dù tỷ giá VND được điều chỉnh tăng hay giảm.

Mỹ đã có sai sót khi đưa ra các tiêu chí xác định Việt Nam thao túng tiền tệ? - Ảnh 3.

Mỹ xác định Việt Nam thao túng tiền tệ do đáp ứng cả 3 tiêu chí về thặng dư thương mại song phương với Mỹ, thặng dư cán cân vãng lai và mua ròng ngoại tệ

Thứ ba, việc NHNN mua ngoại tệ can thiệp thời gian qua nhằm đảm bảo hoạt động thông suốt của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, tăng dự trữ ngoại hối (vốn ở mức thấp) so với các nước trong khu vực để tăng cường an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia, chứ không phải là tạo lợi thế thương mại.

Theo IMF, dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối năm 2019 chỉ ở mức tương đương 3,5 tháng nhập khẩu (cao hơn một chút so với mức khuyến nghị tối thiểu 3 tháng nhập khẩu của IMF). Con số này thấp hơn nhiều so với mức 5 tháng nhập khẩu của Singapore, 8 tháng của Philippines, Hàn Quốc hay 9 tháng của Thái Lan và 14 tháng của Trung Quốc.

Mỹ đã có những sai sót khi đưa ra các tiêu chí xác định Việt Nam thao túng tiền tệ?

Viện Nghiên cứu kinh tế Quốc tế Peterson (PIIE, hay còn gọi là Viện Peterson) thường xuyên nghiên cứu về vấn đề cáo buộc thao túng tiền tệ của Mỹ với các nước vào ngày 16/12 vừa qua, đã nhận định rằng cáo buộc từ Bộ Tài chính Mỹ rằng Việt Nam thao túng tiền tệ là chưa thỏa đáng và không phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Đồng thời, tổ chức này nhấn mạnh rằng Bộ Tài chính Mỹ đã có những sai sót khi đưa ra các tiêu chí để xác định một nền kinh tế là thao túng tiền tệ.

Theo Viện Peterson, các quốc gia có nhu cầu hợp pháp về một lượng dự trữ ngoại hối vừa phải để chống chịu với các cú sốc bất ngờ. Trong số 2 quốc gia bị gắn mác thao túng tiền tệ và 10 nền kinh tế bị đưa vào danh sách theo dõi, tất cả các nước đều vượt tiêu chí dự trữ ngoại hối với biên độ rộng, trừ Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc sử dụng tiêu chí có thặng dư cán cân thương mại song phương với Mỹ như là tiêu chí chính để xác định một nền kinh tế là thao túng tiền tệ là không có cơ sở trong kinh tế học, nhất là trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ, các nền kinh tế tham gia sâu và đa dạng trong các chuỗi giá trị toàn cầu.

Đơn cử như, Singapore nhập khẩu nhiều từ Mỹ khiến Mỹ có thặng dư thương mại với Singapore, nhưng thực tế là hàng hóa nhập khẩu này lại được xuất đi Trung Quốc và các nước Châu Á khác, làm nguyên liệu đầu vào cho hàng xuất khẩu sang Mỹ. Như vậy là Singapore đóng góp đáng kể vào thâm hụt thương mại của Mỹ với các nước khác.

Cũng theo Viện Peterson, sẽ hợp lý hơn khi chỉ xem xét việc thao túng tiền tệ đối với các quốc gia có thu nhập cao hoặc thu nhập trung bình cao. Trong khi đó Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình thấp nên không phù hợp để đánh giá thao túng tiền tệ.

Qua các vụ việc liên quan đến thao túng tiền tệ mà Mỹ cáo buộc các nước, có thể thấy rằng, các tiêu chí đánh giá thao túng tiền tệ mà Mỹ áp dụng vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của các đối tác thương mại, sự thừa nhận từ các tổ chức quốc tế và cộng đồng chuyên gia cũng như các Viện Nghiên cứu uy tín trên thế giới.