Theo nguyệt san Tuyệt mật của Nga thì những người dân của nước Mỹ non trẻ khi đó cho rằng lực lượng bảo vệ riêng là công cụ của chế độ quân chủ và những nhà lãnh đạo được bầu lên qua bầu cử dân chủ thì không cần đến đội bảo vệ riêng. Vì vậy, lực lượng đặc vụ Mỹ đến tận năm 1906 mới bắt đầu đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ Nhà Trắng.
Trong thời gian cầm quyền của vị Tổng thống đầu tiên George Washington từ năm 1789 đến năm 1797, nước Mỹ thường xuyên ở trong tình trạng mất ổn định: những phần tử chống đối công khai tạo phản, gián điệp Anh hoạt động mạnh.
Tháng 6/1776, khi G. Washington đang còn là Tổng tư lệnh của lực lượng khởi nghĩa, vị Thống đốc New York là William Tryon đã vạch kế hoạch bắt giữ G. Washington và giao cho quân Anh lúc đó đang tấn công thành phố này. Gần 500 người tham dự vào âm mưu này, trong đó bao gồm cả nhân viên cận vệ của G. Washington là Thomas Hickey.
Tuy nhiên, âm mưu của William Tryon đã bị bại lộ và ông này bị bắt giam, Thomas Hickey cũng bị treo cổ. Mặc dù G. Washington có rất nhiều kẻ thù nhưng ông chưa bao giờ yêu cầu Quốc hội cấp kinh phí để xây dựng lực lượng bảo vệ riêng cho mình.
Những tổng thống Mỹ tiếp theo đã kế tục truyền thống của người tiền nhiệm G. Washington: chỉ trong những tình huống đặc biệt mới huy động lực lượng bảo vệ.
Vị Tổng thống thứ 6 là John Quincy Adams trong nhiệm kỳ 1825-1829 đã từng nhận được rất nhiều thư đe dọa. Thậm chí có một cựu trung sĩ quân đội đã đột nhập vào Nhà Trắng với mục đích tìm ông để "thanh toán nợ nần" nhưng đã không thành công. Tuy bị đe dọa nhưng Tổng thống Q. Adams vẫn thích đi dạo một mình trong thành phố và thậm chí ông còn đi bơi ở sông Patomac.
Người kế nhiệm ông Q. Adams là Andrew Jackson nhiệm kỳ 1829-1837 từng là Anh hùng nước Mỹ qua những lần tham gia các cuộc chiến tranh với người Anh và người Ấn Độ. Vốn xuất thân từ quân đội, Tổng thống A. Jackson không ngại xung đột với Quốc hội, không sợ mếch lòng chính quyền các bang địa phương và cũng không e sợ cả Tòa án tối cao.
Tổng thống A. Jackson đã xử lý những bức thư đe dọa một cách khác thường: ông gửi tất cả những bức thư có nội dung đe dọa đến một tòa soạn báo, qua đó đăng lên báo để bày tỏ thái độ coi thường đối với những kẻ mà ông cho là hèn nhát. Tháng 5/1833, viên Trung úy Robert Lundoff vốn bị cách chức và đuổi khỏi quân đội do ăn cắp công quỹ đã tìm cách trà trộn vào một buổi chiêu đãi do vị tổng thống này tổ chức. Robert Lundoff đã lén tấn công A. Jackson vì cho rằng, chính vì ông mà hắn bị sa thải khỏi quân đội.
Tuy nhiên, vị Tổng thống nước Mỹ lúc đó đã không làm kinh động đến mọi người mà một mình chống cự và đuổi kẻ tấn công ông ra khỏi cửa. Tổng thống A. Jackson đã không thông báo vụ việc này với cơ quan an ninh. Tuy nhiên, ngày 10/1/1835, ông đã gặp phải một thích khách thật sự. Đây cũng là vụ ám sát đầu tiên mà Tổng thống Mỹ gặp phải.
Trong buổi tang lễ của Nghị sĩ Davis, Richard Lawrence - một kẻ thang lang không nghề nghiệp người Anh đã nhằm bắn vào A. Jackson nhưng viên đạn bị kẹt. A. Jackson cầm gậy batoong và xông về phía Richard Lawrence, hắn bóp cò súng lần nữa nhưng súng vẫn không nổ. Richard Lawrence đã bị bắt sống, còn vị Tổng thống Mỹ 67 tuổi đã sống sót nhờ vào may mắn bởi theo lý thuyết thì khả năng đạn bị tắc 2 lần liên tiếp chỉ là 1/125.000. Mặc dù gặp nguy hiểm qua vụ ám sát trên nhưng Tổng thống Jackson vẫn không tổ chức đội bảo vệ riêng.
Đến năm 1842, tình hình đã có sự thay đổi. Một ngày, một người đi đường say rượu đã ném đá vào Tổng thống John Tyler (vị Tổng thống Mỹ thứ 10 giai đoạn 1841-1845) khi đó đang đi dạo trên bãi cỏ phía nam Nhà Trắng. Sau sự kiện này, Quốc hội Mỹ đã đồng ý cung cấp kinh phí để thành lập một lực lượng gồm 15 nhân viên cảnh sát. Tuy nhiên, nhiệm vụ của lực lượng này không phải là bảo vệ nguyên thủ quốc gia của nước Mỹ mà là bảo vệ Nhà Trắng với danh nghĩa "tài sản của liên bang".
Những vệ sĩ bảo vệ tổng thống một cách chuyên nghiệp xuất hiện lần đầu tiên vào nhiệm kỳ của Tổng thống Abraham Lincoln. Khi ông Lincoln đắc cử Tổng thống cũng là thời kỳ xung đột Nam - Bắc lên cao, nội chiến đã xảy ra tại nước Mỹ. Nhưng ngay từ thời gian nội chiến chưa bắt đầu, người miền Nam đã có ý đồ phá hoại buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Abraham Lincoln.
Cuối tháng 2/1861, Tổng thống Lincoln dự định đi tàu hỏa từ quê hương ông ở Illinois đến Washington. Cơ quan đường sắt đã biết được có người âm mưu phá hoại hành trình của ông Lincoln nên đã cầu cứu Công ty Thám tử Pinkerton Chicago. Allan Pinkerton, ông chủ hãng thám tử tư này đã phái nhân viên đến những ga lớn trên toàn tuyến đường sắt giữa New York và Washington, còn bản thân ông thì xuống thành phố Baltimore ở bang Maryland thuộc miền Nam để điều tra về âm mưu ám sát ông Lincoln của phe miền Nam.
Cấp dưới của ông Allan Pinkerton là Webster đã xâm nhập vào lực lượng quân đội miền Nam và thu thập được thông tin rằng, phe miền Nam sẽ tổ chức ám sát ông Lincohn khi chuyến tàu chở ông này đến ga Baltimore. Sau khi nhận được thông tin này, ông Allan Pinkerton đã đi liên tục suốt ngày đêm để chặn đoàn tàu chở Tổng thống tại thành phố Philadelphia và chọn cho ông Lincoln một tuyến đường khác an toàn hơn.
Chuyến hành trình nguy hiểm này đã gây ấn tượng sâu sắc với Tổng thống Abraham Lincoln đến mức ông đã muốn giao cho Allan Pinkerton trách nhiệm đối phó với những hoạt động gián điệp của phe miền Nam tại Washington. Tuy nhiên, Tư lệnh quân đội Patomac là McLean đã thuyết phục Allan Pinkerton phụ trách hoạt động tình báo của quân đội liên bang tại khu vực tuyến đầu xung đột giữa hai bên. Và trong công việc này, Allan Pinkerton đã thu được rất nhiều thành công.
Công ty Thám tử Allan Pinkerton tồn tại một thời gian dài. Sau đó Allan Pinkerton thường nói với mọi người rằng, nếu để cho những thám tử của ông bảo vệ Tổng thống Abraham Lincoln thì ông Lincoln đã không chết.
Cuộc đời của Tổng thống Abraham Lincoln gắn liền với chiến tranh. Vì vậy nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho ông Lincoln chủ yếu do quân đội đảm nhiệm. Bộ binh và kị binh tuần tra xung quanh Nhà Trắng cũng như bảo vệ đoàn tàu đặc biệt của Tổng thống Lincoln. Đến tháng 11/1864, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc kết thúc, Tổng thống Lincoln mới có 4 nhân viên cảnh sát bảo vệ.
Vì những nhân viên cảnh sát luôn theo cạnh ông dù ở bất kỳ đâu nên Tổng thống thường thấy bất tiện và đã nhiều lần yêu cầu họ giữ khoảng cách xa với ông. Năm 1865, nhân viên bảo vệ John Parker tháp tùng Tổng thống Lincoln đến nhà hát Ford. Đáng lẽ ra John Parker phải đứng gác ngay trước cửa lô ngồi dành riêng cho ông Lincoln nhưng anh ta đã rời khỏi vị trí đi xem kịch và thậm chí còn bỏ đi ra hẳn bên ngoài nhà hát. Cũng chính vì vậy mà John Wilkes Booth - một diễn viên có cảm tình với phe miền Nam đã vào được lô riêng của Tổng thống Lincoln và găm một viên đạn vào đầu ông.
Cùng ngày hôm đó, một đồng bọn của John Wilkes Booth cũng âm mưu ám sát Phó tổng thống Andrew Johnson và tướng Grant - Tổng Tư lệnh quân đội miền Bắc.
Trong 12 năm sau sự kiện này, hàng loạt vụ ám sát chính trị gia đã xảy ra trên khắp nước Mỹ, số chính trị gia đã bị ám sát trong thời gian này lên tới 24 người. Mặc dù như vậy, tổng thống Mỹ vẫn chưa có lực lượng bảo vệ chuyên trách. Sau khi chiến tranh kết thúc, lực lượng cảnh sát chuyên trách tuần tra xung quanh Nhà Trắng cũng bị giải tán và đội cảnh sát bảo vệ tổng thống cũng giảm xuống chỉ còn 3 người.
Ngày 2/7/1881, Tổng thống thứ 20 là James Garfield chết do bị ám sát bởi Charles J.Guiteau - một kẻ thần kinh không ổn định. Sau cái chết của ông Garfield, đội bảo vệ tổng thống vẫn chỉ có 3 nhân viên cảnh sát bình thường và không hề được huấn luyện đặc biệt về chuyên môn bảo vệ yếu nhân.
Một điều trớ trêu là tiền thân của Sở Đặc vụ bảo vệ được thành lập ngay trước khi Tổng thống Lincohn bị sát hại có vài giờ đồng hồ. Hôm đó, Bộ Tài chính đề nghị Tổng thống Lincohn phê chuẩn cho phép Bộ này thành lập một đơn vị đặc biệt chuyên tấn công loại tội phạm sản xuất tiền giả khi đó đang hoành hành ở nước Mỹ và đặt tên cho đơn vị này là Ban đặc vụ. Sau cái chết của Tổng thống Lincohn, việc này rơi vào quên lãng và đến tận năm 1865, Ban đặc vụ này mới được chính thức thành lập.
Ban đầu, Ban đặc vụ chỉ có 10 nhân viên và 1 chỉ huy. Các nhân viên đặc vụ đều được tuyển lựa trong số các thám tử tư và quân nhân đã giải ngũ. Sau đó số lượng nhân viên của Ban đặc vụ đã được tăng cuờng nhưng đến tận cuối thế kỷ XIX, tổng số nhân viên của Ban đặc vụ vẫn không quá 30 người. Ban đầu mỗi nhân viên của Ban đặc vụ chỉ được hưởng mức lương 4-7 USD/ngày và không có nhiều cơ hội để thể hiện khả năng của mình. Thậm chí các nhân viên của Ban đặc vụ này còn không có huy hiệu như nhân viên của những lực lượng hành pháp khác. Phải đến tận năm 1873, các nhân viên đặc vụ mới được sử dụng huy hiệu kim loại có dòng chữ "Sở Đặc vụ Hoa Kỳ".
Khi chiến tranh Mỹ và Tây Ban Nha xảy ra, Quốc hội Mỹ yêu cầu Sở Đặc vụ bảo vệ tổng thống 24/24 giờ. Khi đó Sở Đặc vụ không chỉ phải truy bắt gián điệp Tây Ban Nha trên lãnh thổ Mỹ mà còn phải thu thập thông tin tình báo quân sự.
Thời điểm này, cả Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) lẫn Cục Điều tra liên bang (FBI) đều chưa ra đời. Sở Đặc vụ tập trung cả nhiệm vụ hoạt động gián điệp và phản gián. Chính vì vậy mà cả quân đội lẫn Bộ Tư pháp đều cho rằng Sở Đặc vụ tập trung quá nhiều quyền hạn nên ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc, cơ quan này đã bị tước bỏ bớt quyền hạn và quay trở về với những nhiệm vụ ban đầu nhưng vẫn tiếp tục duy trì nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống Mỹ lúc đó là William McKinley.
Thời gian đó, hàng ngày Tổng thống McKinley đều nhận được những cú điện thoại nặc danh có nội dung đe dọa từ những kẻ vô chính phủ. Do sự ép buộc của tình thế, Quốc hội Mỹ đã nới lỏng một số hạn chế liên quan đến công tác bảo vệ tổng thống của Sở Đặc vụ nhưng vẫn chưa coi đây nhiệm vụ chính thức của cơ quan này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những phần tử theo chủ nghĩa vô chính phủ đã sát hại Tổng thống Pháp Sadi Carnot, Thủ tướng Tây Ban Nha Antonio Canovas, Nữ hoàng Áo Elizabeth và Quốc vương Italia Humbert. Những hoạt động ám sát này đã ảnh hưởng nặng nề đến Leon F.Czolgosz - một phần tử theo chủ nghĩa vô chính phủ người Ba Lan tại Mỹ. Khi thăm dò được rằng Tổng thống William McKinley sẽ tham dự một cuộc triển lãm, hắn đã lên kế hoạch ám sát nhằm vào ông William McKinley.
Lợi dụng cơ hội Tổng thống gặp gỡ những người tham quan triển lãm, hắn đã tiếp cận được với ông ở cự ly chỉ cách khoảng 1 mét. Khi đó, xung quanh Tổng thống William McKinley có 3 nhân viên đặc vụ và 4 quân nhân. Kẻ ám sát đã rút khẩu súng ngắn giấu trong tay áo và bắn liên tiếp 2 phát vào W. McKinley trong đó 1 phát đạn bắn trúng vào dạ dày đã giết chết vị Tổng thống thứ 25 của nước Mỹ.
W. McKinley là Tổng thống Mỹ thứ ba bị ám sát. Cái chết của ông đã khiến Quốc hội Mỹ nhìn nhận vấn đề đảm bảo an ninh cá nhân của tổng thống Mỹ một cách thận trọng hơn trước. Tổng thống kế nhiệm Theodore Roosevelt đã yêu cầu giao nhiệm vụ này cho Sở Đặc vụ.
Đến năm 1906, Quốc hội Mỹ mới chính thức quyết định giao cho Sở Đặc vụ phụ trách bảo đảm an ninh cho tổng thống và cung cấp kinh phí cho hoạt động này.