Trước khi cây na Thái có mặt, Lương An Trà là xã vùng sâu của huyện Tri Tôn. Người dân trong xã chủ yếu canh tác lúa. Tuy nhiên, nhiều diện tích đất của bà con bị nhiễm phèn đã gây ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, việc canh tác lúa cũng gặp nhiều bấp bênh, tình trạng được mùa, mất giá thường xuyên xảy ra. Trước những khó khăn trên, nhiều nông dân trên địa bàn xã đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tìm kiếm các loại cây trồng mới phù hợp với điều kiện của địa phương.
Để nâng cao thu nhập, như nhiều nông dân khác, anh Lê Minh Sang, xã Lương An Trà nhận thấy mô hình trồng na Thái đang phát triển ở nhiều địa phương.
Hiệu quả kinh tế của mô hình trồng na Thái mang lại khá cao. Do đó, năm 2019, anh Sang quyết định chuyển đổi 1,8ha trên tổng số 15ha đất trồng lúa để trồng na Thái. Ngoài ra, anh Sang còn đầu tư, xây dựng hệ thống tưới phun tự động để tiết kiệm nhân công, chi phí sản xuất.
"Đây là loại cây trồng tiềm năng nên thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục tuyên truyền bà con nông dân chuyển đổi vườn tạp để phát triển các mô hình trồng cây ăn trái, trong đó có cây na Thái".
Bà Nguyễn Thị Cẩm Thi
Sau 2 năm canh tác, anh Sang cho biết, na Thái là loại cây khá dễ trồng, ít sâu bệnh, không đòi hỏi quy trình kỹ thuật cao.
Trong quá trình trồng cây na Thái không sử dụng nhiều phân bón nên ít tốn kém chi phí đầu tư hơn các loại cây trồng khác. Tuy nhiên, do đặc thù địa phương là đất phèn nên trước khi xuống giống, phải xử lý đất trước, đồng thời sử dụng thuốc kích thích cây ra rễ khỏe mạnh.
Na Thái dễ trồng không kén chọn đất, kể cả vùng đất nhiễm phèn ở địa phương. Cây trồng trong thời gian 1,5 năm là có thể cho trái. Đặc biệt, cây trồng càng lâu năm sẽ cho năng suất càng cao. Để kích thích cây ra hoa, kết trái cần phải cắt tỉa cành cho cây…".
Sau hơn 2 năm dày công chăm sóc, vườn na Thái của gia đình anh Lê Minh Sang đã cho trái ngọt.
Dịp cận Tết Nguyên đán vừa qua, anh Sang thu hoạch 1/2 diện tích, năng suất ước đạt 2 tấn. Cây na Thái cho trái to, đẹp, được thương lái thu mua với giá 50.000 đồng/kg đối với trái loại 1 (trên 350g/trái) và 25.000 đồng/kg đối với trái loại 2 (dưới 350g/trái).
Anh Sang cho biết, sau khi trừ chi phí, gia đình anh thu về lợi nhuận trên dưới 80 triệu đồng. Hiện, phần diện tích còn lại đang cho trái, hứa hẹn sẽ cho năng suất cao.
Cũng theo anh Sang, năng suất trái na Thái ở đây không cao hơn so với các địa phương khác. Tuy nhiên, so với nhiều loại cây ăn trái được trồng ở địa phương, na Thái có nhiều ưu điểm hơn, nổi bậc hơn, có tiềm năng phát triển kinh tế cao hơn.
Đặc biệt loại cây trồng này có thể cho trái 2 đợt mỗi năm nên nông dân đảm bảo thu nhập. Do đó, thời gian tới, anh Sang sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này trên toàn bộ diện tích đất của gia đình.
Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Lương An Trà Nguyễn Thị Cẩm Thi cho biết, na Thái là loại cây trồng mới được phát triển gần đây, nhưng đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp nông dân nâng cao thu nhập trên cùng 1 đơn vị diện tích. Hiện diện tích trồng cây na Thái của bà con nông dân trên toàn xã khoảng 10ha, trong đó tập trung chủ yếu trên địa bàn ấp Phú Lâm.
Na Thái là loại cây trồng tiềm năng nên thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục tuyên truyền bà con nông dân chuyển đổi vườn tạp để phát triển các mô hình trồng cây ăn trái, trong đó có cây na Thái.
Ngoài việc tuyên truyền nông dân mạnh dạng chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo định hướng tỉnh; tổ chức Hội tiếp tục triển khai có hiệu quả các nghị quyết của Hội phát động, nhất là triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 04, 05, 06 của Trung ương Hội về đẩy mạnh xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp...
Cùng với đó, Hội xây dựng các tổ hội nông dân nghề nghiệp; tăng cường công tác phát triển, quản lý và nâng cao chất lượng hội viên Hội Nông dân Việt Nam; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Bên cạnh đó, Hội Nông dân sẽ vận động, tuyên truyền, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả góp phần đưa nghị quyết vào thực tế cuộc sống của hội viên, nông dân. Qua đó, Hội Nông dân xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn (An Giang) đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Hội ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.