Thưa Thứ trưởng, nhìn lại diễn biến các đợt dịch Covid-19 vừa qua, ngành nông nghiệp đã rút ra được những kinh nghiệm ứng phó và thúc đẩy việc chỉ đạo sản xuất thời gian tới như thế nào?
- Dịch Covid- 19 ảnh hưởng đến toàn cầu và cả kinh tế Việt Nam, ngành nông nghiệp Việt Nam 2 năm vừa qua còn có những đặc thù riêng khi bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và thiên tai rất lớn.
Không những vậy, khó khăn bủa vây toàn bộ chuỗi sản xuất từ nguyên liệu đầu vào tăng giá, khó khăn sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ…
Tuy nhiên, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị thì đã có những thành tựu nhất định và được Chính phủ đánh giá là một yếu tố tích cực để giữ ổn định đất nước lúc khó khăn.
Những ứng phó kịp thời đã cho kết quả cụ thể: Ngay 3 tháng đầu năm 2021, toàn ngành đã đạt chỉ tiêu tăng trưởng 3,16%, xuất khẩu vẫn đạt 10,61 tỷ USD và thặng dư thương mại 2,87 tỷ USD.
Lương thực năm nay sẽ phấn đấu đạt 4,3 triệu tấn, về rau khả năng đạt trên 18 triệu tấn, trong đó, hơn 4 triệu tấn cho xuất khẩu. Thủy sản ước đạt 8,6 triệu tấn, chăn nuôi đạt 5,6 triệu tấn thịt, 15 tỷ quả trứng và 1,2 triệu tấn sữa…
Với kinh nghiệm ứng phó vừa qua và đánh giá hiện nay tình hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, cần triển khai hệ thống các giải pháp.
Trước hết, về tái cơ cấu tập trung 3 trục sản phẩm: Sản phẩm quốc gia, sản phẩm vùng và sản phẩm địa phương.
Thứ hai là cần tạo môi trường thực sự thuận lợi cho doanh nghiệp.
Vừa rồi, Bộ NNPTNT có họp với Thủ tướng Chính phủ và đề xuất sửa đổi Nghị định 57 cho sát thực tiễn hơn nữa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Cùng với đó, cần dự báo thị trường chính xác hơn nữa để đáp ứng thị trường 100 triệu dân và thị trường xuất khẩu.
Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ được coi là giải pháp đặc biệt quan trọng thời điểm này và tương lai.
Trong khi hạ tầng kho bãi và công nghệ chế biến của ta còn lạc hậu, muốn hội nhập và nâng cao giá trị cần dồn chính sách để tăng cường chế biến sâu; đẩy mạnh quản lý dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi, đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc…
Theo Thứ trưởng, trong toàn chuỗi sản xuất hiện nay cần chú ý đến khâu nào nhất để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19?
- Đáng báo động nhất các chuỗi chế biến vì các đơn vị chế biến đang là khâu trọng yếu để thúc đẩy sản xuất trong nước vừa đảm bảo cho việc xuất khẩu.
Chính vì vậy trong thời gian qua, ngoài chỉ đạo khu vực nuôi trồng, khai thác thì Bộ NNPTNT tập trung cao độ chỉ đạo giữ an toàn các nhà máy chế biến, hầu như các cơ sở chế biến đều thực hiện công nhân ăn nghỉ tại chỗ, thực hiện tốt 5K nên chưa có 1 doanh nghiệp chế biến trong ngành nông nghiệp bị phát sinh dịch bệnh.
Cùng với đó, việc phối hợp giữa Bộ NNPTNT và địa phương trong tái cơ cấu phải thực hiện nghiêm túc, việc tiêu thụ cũng phải phối hợp với Bộ Công Thương linh hoạt và chủ động.
Ví dụ cá tra ở miền Nam vừa rồi giá xuống thấp, hai Bộ kết nối giữa phía Nam và phía Bắc đã tương đối thành công. Vải vụ trước cũng thu hoạch đúng dịch đã có những kết nối tiêu thụ tại các thị trường rất tốt.
Rút kinh nghiệp đợt Covid-19 trước có một số địa phương không tiêu thụ được ở một số điểm cục bộ, lần này sẽ có những ứng phó linh hoạt hơn.
Thực tế năng lực cung ứng của chúng ta không đáng lo, ví dụ như Hà Nội có thời điểm giãn cách xã hội khiến người dân lo lắng về lương thực thì cũng chỉ trong 2 ngày, nguồn lương thực huy động tập trung đã đạt đến năng lực dự trữ 300% so với nhu cầu.
Đợt bùng phát thứ tư này đang có những diễn biến rất nhanh, Bộ NNPTNT đã xây dựng kế hoạch về lương thực thực phẩm như thế nào, thưa Thứ trưởng?
- Chúng tôi đã có kế hoạch cụ thể và chi tiết. Cụ thể như về lương thực năm nay sẽ phấn đấu đạt 4,3 triệu tấn, về rau khả năng đạt trên 18 triệu tấn, trong đó hơn 4 triệu tấn cho xuất khẩu. Thủy sản ước đạt 8,6 triệu tấn, chăn nuôi đạt 5,6 triệu tấn thịt, 15 tỷ quả trứng và 1,2 triệu tấn sữa…
Sản xuất đã tính toán linh hoạt về mùa vụ hơn. Ví dụ đợt vừa rồi xuống giống sớm 15-20 ngày nên né được đợt hạn mặn. Hoặc như trong chăn nuôi gia cầm và thủy sản hiện nay giá thức ăn lên thì ta tính toán lại chu trình vào đàn thật hợp lý.
Việc khó nhất hiện nay là hạ tầng chế biến, kho bãi dự trữ, cụ thể là kho lạnh của chúng ta hiện còn đang hạn chế, nâng cấp hạ tầng cần huy động nhiều nguồn vốn và công nghệ.
Những năm gần đây tuy có nhiều bước tiến trong thương mại nông sản nhưng đầu tư hạ tầng nông nghiệp mới chiếm 5,7% ngân sách.
Tuy nhiên cũng phải khẳng định Việt Nam có hệ thống sinh thái nông nghiệp đặc thù khác với các nước. Với 13.500 doanh nghiệp, 17.000 hợp tác xã hơn 34.000 trang trại và 8,6 triệu hộ nông dân kết thành hệ sinh thái tương đối vững chắc để cung cấp lương thực.
Hiện nay chúng ta cũng phải huy động tổng lực các kênh tiêu thụ từ hệ thống phân phối siêu thị, các kênh phân phối online và bán lẻ… Cùng với việc nâng cao việc truy xuất nguồn gốc và đảm bảo nguồn cung thì chúng ta có thể đảm bảo mọi hoàn cảnh tới đây.
Bộ cũng đang đề nghị các địa phương và đặc biệt các doanh nghiệp cần lưu ý hơn trong việc xây dựng thương hiệu các sản phẩm. Việc này, nhiều năm qua đã làm nhưng giờ phải quan tâm hơn đến yếu tố thương hiệu phải truy xuất nguồn gốc được.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!
Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ - CP ngày 29/5/2020 của Chính Phủ