Theo khảo sát, Việt Nam hiện đã trở thành quốc gia sản xuất viên nén lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ.
Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, lượng xuất khẩu viên nén năm 2020 đạt khoảng 3,2 triệu tấn.
Hàn Quốc và Nhật Bản là hai thị trường nhập khẩu viên nén nhiều nhất của Việt Nam, với lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chiếm gần 100% tổng lượng và giá trị xuất khẩu từ Việt Nam.
Đây là nguồn nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy nhiệt điện tại hai quốc gia này.
Hiện, nhu cầu tiêu thụ viên nén trên thế giới tiếp tục tăng, khoảng 250% trong thập kỷ tới. Còn trong giai đoạn 2013-2020, lượng xuất khẩu viên nén của Việt Nam tăng trên 18,2 lần từ khoảng 175,5 tấn lên 3,2 triệu tấn; giá trị xuất khẩu tăng trên 15,3 lần, từ gần 23 triệu USD lên 351 triệu USD.
Theo ghi nhận của Tổng cục Hải quan, năm 2020 có 74 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu viên nén, trong đó có 17 doanh nghiệp xuất khẩu quy mô lớn (lượng xuất khẩu trên 50.000 tấn/doanh nghiệp), tương đương trên 23%.
Lượng doanh nghiệp có quy mô vừa (lượng xuất từ 20,000 – 49.000 tấn/doanh nghiệp) là 10 doanh nghiệp, chiếm 13,5%, còn lại là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ (dưới 20.000 tấn/doanh nghiệp).
Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp và của Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cho thấy cả nước có khoảng 80 nhà máy sản xuất viên nén, với công suất khoảng gần 4,5 triệu tấn, trong đó chủ yếu tập trung tại vùng Đông Nam Bộ, tiếp đến là vùng Đông Bắc.
Đáng chú ý, nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào để sản xuất viên nén chủ yếu được sử dụng từ gỗ phụ phẩm như mùn cưa, dăm bào, cành ngọn của gỗ rừng trồng (keo, bạch đàn, cao su), cây phân tán…
Nguồn nguyên liệu này được đưa vào quá trình ép dưới áp lực cao để tạo ra sản phẩm.
Ngành sản xuất và xuất khẩu viên nén mới được phát triển trong một thập kỷ gần đây, chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu đầu vào cho nhu cầu phát triển điện sinh học tại Nhật Bản và Hàn Quốc kể từ sau thảm động đất và sóng thần.
Nhu cầu tiêu thụ viên nén tại các quốc gia này liên tục tăng, là động lực cho các hoạt động sản xuất và xuất khẩu viên nén của Việt Nam mở rộng
Tuy nhiên, theo TS Tô Xuân Phúc, Chuyên gia phân tích chính sách, Tổ chức Forest Trends, sản xuất và xuất khẩu viên nén của Việt Nam hiện tại đang tiềm ẩn một số vấn đề.
Thứ nhất, nguồn nguyên liệu đầu vào chưa được kiểm soát, điều này dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng bộ, thậm chí sản phẩm có chất lượng kém; điều này đẩy giá xuất khẩu xuống thấp.
Nguyên liệu đầu vào không được kiểm soát cũng tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng tới tài nguyên rừng, với nguồn nguyên liệu đầu vào có thể được thu lượm từ các cây, cành nhỏ từ rừng.
Thứ hai, mặc dù đã trở thành một trong những sản phẩm xuất khẩu quan trọng, sản xuất và xuất khẩu viên nén chưa nhận được sự quan tâm cần thiết của cơ quan quản lý.
Hiện tại khâu sản xuất và xuất khẩu phát triển theo hướng tự phát, mạnh ai người ấy làm. Thiếu quản lý và giám sát, phát triển tự pháp dẫn đến tình trạng chất lượng không đồng bộ. Giá bán có xu hướng giảm là kết quả trực tiếp của nguyên nhân này.
Thứ ba, hiện chưa có cơ chế kết nối các doanh nghiệp, cơ sở chế biến trong ngành, chưa có tiếng nói chung trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Tình trạng cạnh tranh về nguyên liệu đầu vào, cạnh tranh giá cả, người mua… đã và đang diễn ra giữa các cơ sở sản xuất, đặc biệt là các cơ sở quy mô nhỏ.
Thiếu kết nối cũng dẫn đến tình trạng thiếu một cơ quan đại diện cho các cơ sở sản xuất, dẫn đến thiếu kênh kết nối với các cơ quan quản lý nhằm có những chính sách phù hợp cho phát triển của ngành.
Thứ tư, cạnh tranh nguồn nguyên liệu đầu vào không chỉ xảy ra với các doanh nghiệp cùng sản xuất viên nén mà còn xảy ra giữa các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này và các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm khác như dăm gỗ và ván ép.
Thứ năm, hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu viên nén, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô nhỏ, không hiểu thông tin về thị trường xuất khẩu.
Cụ thể, các doanh nghiệp này hầu như không tiếp cận được với các thông tin về động lực thay đổi của thị trường xuất khẩu, các cơ chế, chính sách liên quan tới sản phẩm bao gồm cả những yêu cầu về chất lượng, tính hợp pháp và bền vững.
Thiếu tiếp cận với các thông tin về thị trường xuất khẩu không chỉ làm các các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất này không chủ động được phương án sản xuất kinh doanh mà còn đối mặt với các rủi ro trong việc không đáp ứng được các yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
Các hoạt động sản xuất và xuất khẩu viên nén tại Việt Nam còn tương đối mới mẻ và và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong tương lai. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, đòi hỏi sự kết nối và hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này, và giữa các doanh nghiệp này với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng khác cùng sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào.
Các doanh nghiệp viên nén cũng cần thành lập cơ quan đại diện, nhằm kết nối với các cơ quan quản lý, tạo tiếng nói chung và tiếp cận với các thông tin về thị trường xuất khẩu.