Ngày 1/1/2022, Hiệp định RCEP chính thức có hiệu lực, đây được xem là một động lực thúc đẩy thương mại và phục hồi kinh tế cho Việt Nam cũng như các thành viên tham gia.
Theo đó, các lợi ích chính do Hiệp định này mang lại có thể nhìn nhận ở một số nội dung như thuế quan, biện pháp phi thuế quan,…
Cụ thể, lợi ích rõ nét nhất là RCEP giảm thuế nhập khẩu và củng cố quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do ASEAN + 1. Hiệp định loại bỏ tới 90% thuế quan đối với hàng hóa trao đổi giữa các bên ký kết trong vòng 20 năm tới kể từ ngày có hiệu lực.
Thực tế, thời gian qua, Chính phủ đã rất tích cực ký kết các hiệp định thương mại tự do với hầu hết thị trường lớn, quan trọng nhất trong khu vực và trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội.
Năm 2021, dù tình hình kinh tế hết sức khó khăn, nhưng tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam vẫn đạt được con số kỷ lục, cao nhất từ trước đến nay, gần 670 tỷ USD, tăng 22,6% so với 2020.
Nhấn mạnh hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta đối với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, tuy nhiên TS. Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch Tập đoàn Phú Thái cho rằng, bên cạnh những thuận lợi, bối cảnh quốc tế và khu vực đang chuyển biến nhanh, phức tạp và rất khó lường, tạo ra những thách thức đối với môi trường đầu tư kinh doanh. Các rủi ro tài chính, chủ nghĩa bảo hộ và chiến tranh thương mại giữa các cường quốc, khu vực, cùng với đại dịch Covid-19 đang làm ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam.
Trong đó, sự điều chỉnh chính sách của các nước, việc xem xét lại vai trò của cơ chế đa phương đang tác động khó dự đoán đối với nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng như nước ta. Để thích ứng với điều này, các doanh nghiệp Việt Nam phải linh hoạt thay đổi để phù hợp với xu hướng thị trường. "Covid-19 là giọt nước tràn ly. Đây là lúc chúng ta phải hành động và chắc chắn các doanh nghiệp phải hành động thật nhanh", ông Đoàn nhấn mạnh.
Cũng theo vị doanh nhân này, đại dịch dường như đang giải tỏa áp lực, giúp Việt Nam tiếp cận sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Để có thể trở thành một "hạt nhân" mới, chúng ta lại phải chuẩn bị sẵn sàng để làm người thay thế qua việc tham gia các Hiệp định FTA, tiếp cận với thị trường tiềm năng hơn.
Tuy nhiên, Việt Nam liệu có trở thành "hạt nhân mới" của chuỗi cung ứng toàn cầu hay không, doanh nghiệp Việt Nam làm thế nào để vượt qua thách thức, nắm bắt được cơ hội phát triển trong bối cảnh hội nhập mới, điều đó tiếp tục phụ thuộc vào môi trường kinh doanh và các yếu tố khác, nhưng cũng phụ thuộc lớn vào sự nhạy bén của doanh nhân doanh nghiệp Việt.
Trong điều kiện đương đại, theo ông Đoàn các doanh nghiệp không thể chỉ quan tâm đến tính hiệu quả, đến lợi nhuận mà còn phải chú trọng tính bền vững, hài hòa, linh hoạt, khả năng phòng ngừa rủi ro,…
"Để có thể gặt hái được thành công phải có sự chung tay của cả Chính phủ và doanh nghiệp, trong đó không phải cứ ký được hiệp định là xong mà còn phải thay đổi tư duy, cải cách thể chế, đồng thời chung tay, hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp từ các chính sách chiến lược, chính sách mặt bằng đất đai, chính sách tài khóa và tiền tệ, chính sách lao động,...", ông Đoàn nói.
Từ thực tiễn, TS. Phạm Đình Đoàn đã nêu ba kiến nghị với Chính phủ.
Một là, các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân là "bộ ba xe – pháo – mã" là cỗ xe để giúp kinh tế Việt Nam phát triển. Vì vậy, cần hợp lực cả ba thành phần kinh tế này, làm thế nào để Việt Nam có thể tiến dần tới nền kinh tế tự chủ, ít bị phụ thuộc trước mọi sóng gió, khủng hoảng, hay bị áp lực của các nền kinh tế lớn. Đồng thời, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác, liên kết, liên doanh để lớn mạnh với các doanh nghiệp nước ngoài, để không chỉ chúng ta "bán hàng" tại Việt Nam mà phải bán ra toàn cầu.
Hai là, Chính phủ cùng Liên hiệp Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cùng hỗ trợ và thay đổi nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, rằng con đường phát triển nhanh và bền vững phải là hội nhập, phải đưa sản phẩm dịch vụ của Việt Nam ra khỏi biên giới Việt Nam thông qua 15 - 17 Hiệp định thương mại tự do. Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam, cần hoàn thiện, chuyên nghiệp hóa, quốc tế hóa để hiên ngang toàn cầu hóa.
Ba là, việc phát triển kinh tế phụ thuộc vào các chiến lược đường lối ngoại giao và chính trị. Bởi theo ông Đoàn, các doanh nghiệp bị khó khăn hay thuận lợi, thậm chí bị đóng cửa, đôi khi cũng phụ thuộc vào quan hệ chính trị giữa Việt Nam và các nước.
"Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam mong muốn Đảng và Chính phủ cần có những chiến lược ngoại giao phù hợp, để giúp doanh nghiệp phát triển. Chúng ta đã biết, ai chấp nhận sự thay đổi thì tồn tại, ai nắm được sự thay đổi sẽ thành công, còn ai chống lại sự thay đổi sẽ bị tiêu diệt.
Không thể lên tầm cao mới từ nền móng cũ, các doanh nghiệp cần có tâm thế sẵn sàng bắt tay với kể cả doanh nghiệp trong nước và quốc tế, để cùng đầu tư, cùng phát triển và cùng chia sẻ lợi ích.
Có như vậy, khát vọng nâng tầm được khẳng định và được cống hiến chảy trong huyết mạch của giới doanh nhân, sẽ luôn bươn chải để vượt lên trong bất kỳ trạng thái nào. Đây không chỉ là khát vọng của doanh nhân mà là khát vọng của dân tộc, của từng người Việt, để có được vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại", ông Đoàn nói.