Gia phả này ghi chép đến 11 thế hệ, với 386 người họ Trương, từ lúc ông thủy tổ Trương Đăng Nhất đem vợ con vào lập nghiệp tại tổng Bình Châu, huyện Bình Sơn, phủ Hòa Nghĩa, thời Vĩnh Tộ (1619- 1628), nay thuộc xã Tịnh Khê.
Cùng với những ghi chép về 386 người họ Trương Đăng, sau đổi là Trương Quang từ năm Kiến Phúc nguyên niên (1883) vì húy kỵ, trong “Trương tộc thế phả” còn ghi nhiều câu chuyện, mà người viết gọi là “ngoại sử”, nhưng thực ra, đó là những truyền thuyết có ít nhiều tính hoang đường, kỳ bí. Tiêu biểu là chuyện mộ lùm.
Vào một ngày 10 năm sau, có một người Tàu (không rõ tên) qua lại chỗ gốc cây 3 - 4 lần, chừng như cố đi tìm vật gì. Thấy vậy ông Hưng mới hỏi thăm, thì người Tàu kia mới đem sự tình kể lại, là đi tìm chum vàng mà ông bà họ đã từng cất giấu, cùng với việc trình ra bản chúc thư.
Nghe vậy ông Hưng liền chỉ chỗ chôn chum vàng để người Tàu đào lên. Người Tàu lấy làm kinh ngạc và nể phục, vì thấy chum vàng vẫn còn nguyên vẹn, bèn xin chia cho ông Hưng một nửa. Nhưng ông Hưng kiên quyết từ chối, nói rằng: “Đây là báu vật của ông bà ông, lão phu này không lấy gì”. Biết không thể thuyết phục được ông Hưng nhận số vàng mà người Tàu chia cho, người Tàu kia bèn lạy tạ ơn và cáo biệt.
Mộ lùm chính là nơi yên nghỉ của ông Trương Đăng Hưng - Cai hiệp (một chức quan nhỏ, trật Chánh bát phẩm), tước Huy Đức tử, sinh năm Canh Dần (1650), mất năm Kỷ Dậu (1729).
Trong sách “Non nước xứ Quảng”, bản in năm 1971, nhà biên khảo Phạm Trung Việt cũng ghi lại sự tích ngôi mộ này, nhưng lại ghi người giữ chum vàng là ông thủy tổ Trương Đăng Nhất.
Ông Phạm Trung Việt có miêu tả ngôi mộ này như sau: “Ngôi mộ ẩn trong lùm cây rậm rạp, tư vuông 20m, có ruộng vây chung quanh ba mặt, lộ những đồi núi thấp. Mộ này có sắc thái khác hẳn các ngôi mộ khác, chính giữa có ngôi mộ lớn, hai bên tả hữu có ngôi mộ gió (mộ để giả trang) yểm trợ vững vàng như núi Thái Sơn” (“Non nước xứ Quảng”, tân biên, Khai Trí, Sài Gòn, 1971, tr.131).
Hình như, nhận thấy có sự nhầm lẫn về tên người, nên trong sách “Khuôn mặt Quảng Ngãi” (năm 1973), trong mục viết về Trương Đăng Quế, ông Phạm Trung Việt có viết lại và nói người giữ chum vàng là cháu nội ông Trương Đăng Nhất, tức ông Trương Đăng Hưng (người mà chúng tôi thấy ghi trong “Trương tộc thế phả” ghi là đời thứ 2, trừ ông thủy tổ Trương Đăng Nhất), cùng với việc miêu tả khá kỹ về vị trí, cảnh quan ngôi mộ.
Trong sách này ông Phạm Trung Việt không chỉ nói về 2 ngôi mộ gió, mà còn miêu tả thêm, là còn có “một ngôi mộ nhỏ của một tên hầu cận người Thượng”. Tác giả sách “Khuôn mặt Quảng Ngãi” cũng cho biết thêm, ngôi mộ này không có rễ cây nào ăn thông vào được; trước năm 1963, mộ lùm là một thắng cảnh “được nhiều người viếng thăm” (Nam Quang xuất bản, 1973, tr.76-77).
Chắc hẳn, qua cách đưa truyền thuyết vào gia phả, người viết đã có dụng ý rằng: Nhờ mộ lùm (và cả ngôi mộ táng ông thủy tổ Trương Đăng Nhất ở xứ Bàu Cò, xã Tư Cung xưa, nay cũng thuộc Tịnh Khê, là huyệt mộ cũng được một người bí ẩn nào đó mách bảo là phải chôn chỗ đó con cháu mới đời đời phát đạt, thịnh vượng), mà nhiều người họ Trương được đỗ đạt, nhiều người được phong công hầu, khanh tướng cũng là chuyện đương nhiên.
Nhưng chuyện mộ lùm, chuyện mộ của ông thủy tổ họ Trương ở Bàu Cò, không chỉ có trong gia phả, mà có cả trong dân gian như ông Phạm Trung Việt đã ghi. Âu cũng là cách người xưa cố tình giải thích về chuyện một dòng họ đã từng có nhiều người quan to, chức trọng, có công với non sông, đất nước.