Giá thép hôm nay giao tháng 10/2023 trên Sàn giao dịch Thượng Hải tăng 33 nhân dân tệ lên mức 3.732 nhân dân tệ/tấn.
Giá thép giao kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 35 nhân dân tệ, lên mức 3.648 nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt ngày 14/6/2023 phục hồi nhờ kích thích tiền tệ của Trung Quốc. Cụ thể: Giá quặng sắt giao tháng 7 trên Sàn giao dịch Singapore cao hơn 2,69% lên mức 111,8 USD/tấn. Trong khi đó, giá các nguyên liệu sản xuất thép khác như than cốc và than luyện cốc lần lượt tăng 4,09% và 2,64%.
Trong phiên giao dịch ngày 14/6/2023, giá quặng sắt kỳ hạn của Singapore và Đại Liên tăng trở lại do tâm lý thị trường được cải thiện sau khi ngân hàng trung ương của nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới hạ lãi suất cho vay ngắn hạn lần đầu tiên sau 10 tháng.
Thông báo được đưa ra sau khi điểm chuẩn của Singapore giảm 3% sau khi tăng gần 15% trong 8 phiên liên tiếp trong bối cảnh hy vọng Trung Quốc sẽ đưa ra một loạt chính sách kích thích để vực dậy thị trường bất động sản.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã cắt giảm lãi suất mua lại kỳ hạn 7 ngày thêm 10 điểm cơ bản xuống mức 1,90% vào hôm nay. Đây là lần giảm lãi suất cho vay ngắn hạn đầu tiên kể từ tháng 8/2022.
Dữ liệu sắp được công bố dự kiến sẽ cho thấy đà phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục giảm trong tháng 5 với hoạt động sản xuất và đầu tư suy yếu. Chi tiêu của người tiêu dùng, vốn đã tăng mạnh vào đầu năm nay sau khi Trung Quốc dỡ bỏ các hạn chế về đại dịch Covid-19, nay cũng đang hạ xuống mức vừa phải.
Việc cắt giảm lãi suất của PBOC diễn ra ngay trước ngày họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vào cuối tuần này, các nhà kinh tế dự đoán khả năng Fed sẽ tạm dừng tăng lãi suất trong phiên họp sắp tới.
Đồng nhân dân tệ kéo dài đà giảm khi tiếp tục giảm 0,3% xuống 7,1748 CNY (nhân dân tệ)/USD sau thông tin cắt giảm lãi suất. Lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Trung Quốc cũng giảm 3 điểm cơ bản xuống 2,64%. Sau thông tin cắt giảm lãi suất, nhóm cổ phiếu bất động sản bắt đầu phục hồi với mức tăng 2,2%.
Trung Quốc đang xem xét hàng chục biện pháp kích thích để hỗ trợ các lĩnh vực bao gồm thị trường bất động sản, người tiêu dùng thép lớn nhất. Động thái này được đưa ra sau một loạt dữ liệu kinh tế yếu hơn dự kiến vào tháng 4 và tháng 5/2023.
Giá quặng sắt giao tháng 7 trên Sàn giao dịch Singapore cao hơn 2,69% lên mức 111,8 USD/tấn.
Trên sàn hàng hóa Đại Liên, giá quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 9 đã đảo ngược xu hướng giảm trong phiên giao dịch buổi sáng và kết thúc giao dịch trong ngày cao hơn 0,69% lên mức 801,5 nhân dân tệ (tương đương112,10)/tấn.
Trong khi đó, giá các nguyên liệu sản xuất thép khác như than cốc và than luyện cốc lần lượt tăng 4,09% và 2,64%.
Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,88%, giá thép cuộn tăng 1,77% và thép cuộn cán nóng tăng 3,16%. Giá thép không gỉ giảm 0,56%.
Các nhà phân tích cho biết, giá thép tăng gần đây đã giúp mở rộng biên lợi nhuận thép và khuyến khích các nhà sản xuất thép dựa trên lò cao khởi động lại hoạt động.
Ngày 14/6, thị trường trong nước tiếp tục điều chỉnh giảm giá với dòng thép thanh vằn D10 CB300.
Lý giải nguyên nhân giảm giá thép, các doanh nghiệp cho rằng do cùng chung đà giảm của thế giới. Hơn nữa, giá các loại nguyên vật liệu đầu vào đang trong xu hướng giảm.
Như vậy tính từ đầu năm 2023 đến nay, giá thép xây dựng đã có 10 đợt điều chỉnh giảm, tuỳ thương hiệu sẽ có tần suất điều chỉnh giá khác nhau.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), giá thép xây dựng trong nước liên tục giảm trong thời gian gần đây là do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và chi phí nguyên liệu đầu vào đã hạ nhiệt.
Giá thép thế giới gần đây cũng giảm mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp trong ngành buộc phải giảm giá để kích cầu tiêu thụ.
Sau đợt điều chỉnh mới, giá thép được ghi nhận vào ngày hôm nay của các thương hiệu cụ thể như sau:
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với thép thanh vằn D10 CB300 giảm 200 đồng, xuống mức giá 14.690 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 dừng ở mức 14.490 đồng/kg.
Tương tự, thương hiệu thép Việt Ý cũng điều chỉnh giảm 200 đồng với thép thanh vằn D10 CB300 xuống mức 14.390 đồng/kg; trong khi đó, thép cuộn CB240 có giá 14.220 đồng/kg.
Thép Việt Đức, với thép cuộn CB240 bình ổn với mức giá 14.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 210 đồng, xuống mức 14.560 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 hiện ở mức 14.410 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm sâu 410 đồng, hiện có giá 14.360 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép cuộn CB240 ở mức 14.360 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 200 đồng, có giá 14.260 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, với thép thanh vằn D10 CB300 giảm 210 đồng, có giá 14.460 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.310 đồng/kg.
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 210 đồng, từ mức 14.750 đồng/kg xuống còn 14.540 đồng/kg.
Thép Việt Đức, dòng thép cuộn CB240 bình ổn ở mức 14.640 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.970 đồng/kg - giảm 200 đồng.
Thép VAS, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.620 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 120 đồng, hiện có giá 14.650 đồng/kg.
Thép Pomina bình ổn, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.200 đồng/kg.
Thép Hòa Phát có sự điều chỉnh, thép cuộn CB240 ở mức 14.510 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.640 đồng/kg - giảm 210 đồng.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.210 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 150 đồng, có giá 14.260 đồng/kg.
Thép Pomina tiếp đà bình ổn, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.200 đồng/kg.