Theo Bộ Y tế, trong số các bệnh phụ khoa, viêm âm đạo là căn bệnh chị em hay mắc phải nhất. Điều đáng lo ngại là xu hướng trẻ hóa của bệnh lý này khi không chỉ ở những phụ nữ đã lập gia đình mà cả các thiếu nữ chưa từng quan hệ tình dục cũng có thể mắc viêm âm đạo.
Song song với nguy cơ sẵn có, những yếu tố liên quan môi trường, đời sống xã hội hay thiếu hụt kiến thức đúng đắn trong việc vệ sinh vùng nhạy cảm cũng như giáo dục giới tính cũng khiến một số dạng bệnh phụ khoa có xu hướng tăng ở các bạn nữ trẻ.
Bà Dương Thị Hải Ngọc, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế) cho biết, bệnh phụ khoa là nhiễm khuẩn đường sinh dục (RTIs) ở nữ (viêm âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, tử cung, buồng trứng, vòi trứng) do các nguyên nhân. Trên thế giới, hàng năm ước tính có 340 triệu ca mắc mới các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs).
Nguyên nhân viêm nhiễm phụ khoa có thể do yếu tố nội sinh (do sự phát triển quá mức của các vi khuẩn và vi sinh vật có sẵn ở âm đạo như vi khuẩn, nấm ..); Do thói quen sinh hoạt, vệ sinh, môi trường, điều kiện sống: đồ lót chật, thói quen vệ sinh không đúng, thiếu nước sạch, nhà ở, môi trường, khí hậu ..;
Do mất cân bằng nội tiết: khi mang thai, sau sinh, tuổi tiền mãn kinh, mãn kinh, dùng thuốc, chế độ dinh dưỡng, Stress …;
Do yếu tố ngoại sinh: do vi khuẩn, vi sinh vật xâm nhập vào đường sinh sản qua các thủ thuật can thiệp y tế chưa đảm bảo vô trùng;
Do quan hệ tình dục không an toàn: ngoài quan hệ tình dục không được bảo vệ, việc quan hệ tình dục thô bạo cũng làm tổn thương âm đạo. Những vi khuẩn, vi sinh vật từ hậu môn, bộ phận sinh dục của nam giới có thể đi sâu vào âm đạo phụ nữ và tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển.
Theo bà Hải, một vấn đề rất đáng quan ngại hiện nay đó chính là tâm lý e ngại ở nhiều chị em phụ nữ khi mắc bệnh viêm âm đạo. Theo đó, đa số các chị em khi bị bệnh dù có cảm giác khó chịu, biểu hiện ban đầu… nhưng vẫn cố chịu, thường có tâm lý e ngại, tự điều trị chứ không đi khám.
Khi bệnh chuyển sang giai đoạn nặng, chị em mới đến bệnh viện, nhưng khi đó việc điều trị sẽ tốn kém, mất nhiều thời gian và có thể để lại hậu quả nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của chị em phụ nữ.
Báo cáo thống kê từ các Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, mỗi năm có 8.839.785 lượt khám phụ khoa và 3.674.276 lượt điều trị bệnh phụ khoa. 89% phụ nữ đã và đang mắc phải các chứng bệnh phụ khoa với cấp độ khác nhau nhưng có 60% ngại ngùng không đi khám phụ khoa định kỳ. 35% bệnh phụ khoa có thể gây biến chứng nguy hiểm.
Theo bà Hải, hậu quả của viêm nhiễm phụ khoa là viêm vùng chậu do nhiễm khuẩn đường sinh sản dưới không điều trị triệt để; nhiễm khuẩn đường sinh sản trên dẫn đến viêm tử cung, viêm phần phụ; Gây nhiễm trùng thai nghén, nhiễm trùng hậu sản: Sảy thai; Thai ngoài tử cung; Nhiễm khuẩn ối; Nhiễm khuẩn hậu sản; Đẻ non; Nhiễm khuẩn sơ sinh …
Hậu quả lâu dài có thể gây vô sinh; Gây ung thư cổ tử cung (nếu nhiễm virus HPV). Như vậy, chất lượng cuộc sống của chị em sẽ giảm sút, ảnh hưởng đến quan hệ vợ chồng, hạnh phúc gia đình và sự tự tin của phụ nữ, kinh tế gia đình cũng lao đao.
"Để dự phòng nhiễm khuẩn đường sinh sản và bệnh phụ khoa, biện pháp dự phòng tốt nhất là ngăn chặn nhiễm trùng mới, theo 3 nhóm nguyên nhân.
Dự phòng nhiễm trùng nội sinh gồm thay đổi thói quen sinh hoạt, vệ sinh đúng cách, cải thiện môi trường, điều kiện sống;
Hạn chế, ngăn ngừa nhiễm trùng ngoại sinh, tuân thủ quy trình vô khuẩn, quy trình chuyên môn; đến cơ sở y tế tin cậy, an toàn để khám bệnh, chữa bệnh…;
Thực hành quan hệ tình dục an toàn, phòng bệnh lây qua đường tình dục bằng cách chung thuỷ 1 vợ-chồng; sử dụng bao cao su; không quan hệ tình dục khi đang mắc nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh phụ khoa", bà Hải nhấn mạnh.
Chiều ngày 6/7, tại Văn Phòng Bộ Y tế, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế phát động chiến dịch truyền thông dự phòng nhiễm khuẩn đường sinh sản với chủ đề "20 triệu phụ nữ phụ Việt Nam, phụ khoa đúng cách – Hạnh phúc trọn vẹn".
Chiến dịch có mục tiêu giúp hàng triệu phụ nữ các độ tuổi khác nhau trên cả nước được tiếp cận và trang bị những kiến thức đúng đắn, hữu ích về cách chăm sóc sức khỏe phụ khoa từ đó nâng cao sức khỏe sinh sản và chất lượng cuộc sống.