GS.TS Võ Tòng Xuân, chuyên gia hàng đầu về cây lúa, Hiệu trưởng danh dự Trường ĐH Nam Cần Thơ nhận định như vậy khi trao đổi với PV Dân Việt chiều 2/8.
Thưa Giáo sư, sau khi Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo, mới đây có thêm Nga và UAE cũng cấm xuất khẩu gạo đã khiến giá gạo trên thị trường thế giới tăng nhanh. Nhận định đây là thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam, phía Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và PTNT) đã có dự định tăng diện tích trồng lúa vụ thu đông 2023 thêm 50.000ha tại ĐBSCL. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
- Tôi nhất trí với chủ trương của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo, bởi đây là một cơ hội rất tốt cho hạt gạo Việt Nam chúng ta, trước viễn cảnh các nước ở khu vực châu Á đều bị ảnh hưởng bởi El Nino và biến đổi khí hậu, hầu như nước nào cũng bị ảnh hưởng giảm sản lượng lúa gạo, trừ Việt Nam.
Kể từ khi có Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã quy hoạch lại vùng trồng lúa để tăng cường các vùng luôn luôn có nước ngọt. Tức là các vùng tiếp giáp với Campuchia, gồm phía Bắc của Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An... có thể trồng được khoảng 1,5 triệu ha lúa. Đây là những vùng không bao giờ thiếu nước ngọt, nước mặn không lên đó được nên có thể coi đây là vùng an ninh lương thực của quốc gia.
Còn ở các vùng khác về phía biển, chúng ta không trồng lúa vào mùa hạn, vừa tốn kém nước ngọt - vốn đã ít ỏi trong mùa khô, lại vừa hiệu quả không cao. Theo đó mùa mưa tập trung trồng lúa rất tốt, hết mưa thì cho nước mặn vào để nuôi tôm, cá, dành nước ngọt cho vùng an ninh lương thực.
Riêng ở vùng giữa, hiện nay nông dân vẫn trồng 3 vụ lúa, một số nơi chuyển đổi sang trồng cây ăn trái, nhưng khi cần trồng lúa vụ 3 thì vẫn có thêm đất để trồng.
Cũng có ý kiến lo ngại, bối cảnh các nước đang cấm xuất khẩu gạo hoặc hạn chế xuất khẩu, lượng gạo dư thừa của chúng ta không đủ để xuất khẩu, trong khi vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực trong nước. Ông có nhận định gì về cơ hội xuất khẩu gạo của Việt Nam lúc này?
- Bối cảnh hiện nay cho thấy, nguồn cung về lương thực sẽ ngày càng hiếm đi, Ấn Độ không đủ để xuất khẩu nữa, Thái Lan cũng giảm lượng gạo xuất khẩu của họ, bên cạnh đó còn giảm lượng đường do mía của Thái Lan cũng bị thiệt hại rất nặng. Do đó thời gian tới, không chỉ giá gạo tăng mà giá đường cũng sẽ tăng.
Trong khi đó Trung Quốc thì luôn thiếu gạo, tương tự như một số quốc gia khác như Philippines, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile đều đang tranh mua gạo Việt với số lượng tăng 40% đến vài chục lần. Do đó chúng ta có thể đẩy mạnh sản xuất lúa, tăng lượng gạo xuất khẩu.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết các đối tác nhập khẩu đang chủ động tìm đến doanh nghiệp Việt Nam hỏi mua gạo. Họ tự trả giá cao hơn 20-40 USD một tấn so với thời điểm trước khi Ấn Độ cấm xuất khẩu mặt hàng này.
Với lượng gạo hiện nay chúng ta đang có, cộng với lượng lúa sắp gặt tới đây, đồng thời tăng cường thêm lúa vụ 3, Việt Nam sẽ có đủ gạo cung cấp cho thị trường xuất khẩu gạo thế giới.
Tôi cho rằng chúng ta cần điều hành theo quy luật của kinh tế thị trường, khi lượng cung gạo thế giới ít đi, mà chúng ta là người có gạo thì hoàn toàn chủ động được về giá.
Ví dụ, có doanh nghiệp như Trung An vừa qua đã kí hợp đồng cung ứng gạo với giá hơn 670 USD/tấn. Như tình hình hiện nay thì trong vòng 1 tháng tới, giá gạo có thể sẽ còn tiếp tục tăng lên.
Nhiều người cho rằng giá gạo tăng cao thì nông dân sẽ có lợi hơn trong việc bán lúa. Theo ông, chúng ta cần điều hành thị trường lúa gạo ra sao để đảm bảo quyền lợi cho người trồng lúa?
- Giá gạo tăng cao, dứt khoát nông dân sẽ có lợi hơn, không phải bán lúa với giá 5.000 - 6.000 đồng/kg như trước, mà có thể tiến tới ít nhất 10.000 đồng/kg lúa.
Những người nông dân kiểu mới sẽ không trồng lúa, bón phân như cũ nữa mà tăng cường bón phân hữu cơ, vi sinh trước khi sạ hoặc cấy thì cây lúa sẽ rất sạch, không có nhiều sâu bệnh. Từ đó giá thành sản xuất sẽ giảm, thay vì 3.000 - 4.000 đồng/kg, thì giảm chỉ còn hơn 2.500 đồng/kg thôi. Như vậy, khi giá thu mua lúa tăng lên, nông dân sẽ có lời nhiều hơn.
Tôi cho rằng đây cũng là dịp chúng ta cách mạng lại quan hệ sản xuất. Theo đó, lực lượng sản xuất (nông dân) phải phát triển, phù hợp với phương thức sản xuất mới. Không còn kiểu nông dân sản xuất manh mún nhỏ lẻ, mà buộc phải hợp tác lại với nhau, hình thành các HTX, các chuỗi cung ứng nguyên liệu lúa tốt nhất cho doanh nghiệp.
Muốn làm được như vậy, tôi đề nghị các doanh nghiệp khai thác thế "thượng phong" mà chúng ta đang có để chủ động hơn trong thương thảo hợp đồng. Ví dụ như đề nghị các khách hàng ký hợp đồng dài hạn để bán lúa trước (giá tương lai), như thị trường cà phê hiện nay.
Khi ký được hợp đồng giá tương lai, doanh nghiệp sẽ trở về vùng nguyên liệu bàn với chính quyền địa phương, đề nghị cùng hợp tác xây dựng kế hoạch sản xuất, đầu tư cho nông dân; phối hợp cùng các nhà khoa học hướng dẫn bà con trồng lúa ra sao để ít sâu bệnh, năng suất cao nhất, làm ra hạt gạo tốt nhất cung cấp cho doanh nghiệp.
Vai trò của doanh nghiệp là tìm đầu ra, nông dân kết hợp với nhau thành chuỗi, còn địa phương sẽ giúp doanh nghiệp có vùng nguyên liệu ổn định, đi kèm với đó là vận dụng các chính sách ưu đãi để cải tiến hệ thống máy sấy, xay xát, chế biến,... Chỉ cần làm tốt khâu xay xát lúa, tăng tỷ lệ gạo nguyên từ 50-55% lên 65% thì sẽ rất lời. Gạo ngon, chất lượng ổn định thì khách hàng sẽ theo mình hoài.
Với cơ hội này, chúng ta không chỉ đưa gạo Việt Nam ra thế giới với giá phải chăng, mà đồng thời cũng có dịp tổ chức lại sản xuất theo đúng chuỗi giá trị. Người nông dân sẽ có động lực ứng dụng khoa học kỹ thuật, làm ra hạt lúa chất lượng tốt nhất để bán được giá cao nhất. Chỉ khi bà con làm giàu với cây lúa, thì sẽ hạn chế được chuyện trồng chặt - chặt trồng, chạy theo phong trào...
Xin cảm ơn Giáo sư!
Giá lúa, giá gạo neo cao
Giá lúa gạo ngày 2/8/2023 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng với cả lúa và gạo. Theo đó, tại kho An Giang, giá lúa OM 5451 tăng 200 đồng/kg lên mức 6.800 – 7.000 đồng/kg.
Với các chủng loại khác, giá lúa ổn định và neo cao. Theo đó, IR504 ở mức 6.600 – 6.800 đồng/kg; giá lúa Nàng hoa 9 lên mức 6.800 - 7.000 đồng/kg; giá lúa OM 18 từ 6.900 - 7.100 đồng/kg; Giá lúa IR504 đang được thương lái thu mua ở mức 6.700 - 6.900 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức 6.900 - 7.100 đồng/kg; lúa Nhật cũng ổn định ở mức 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 13.000 đồng/kg.
Với lúa nếp, giá lúa nếp Long An (tươi) ở mức 6.300 - 6.600 đồng/kg; nếp An Giang (tươi) 6.000 - 6.300 đồng/kg; nếp AG (khô) ở mức 7.400 - 7.600 đồng/kg; nếp Long An (khô) có giá 7.700 - 7.900 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm tiếp tục xu hướng tăng. Theo đó, gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 11.150 - 11.250 đồng/kg, tăng 400 đồng/kg. Gạo thành phẩm ở mức 12.800 – 13.000 đồng/kg, tăng 400 – 500 đồng/kg.