Cụ thể, văn bản hoả tốc của Bộ Công Thương yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về phối hợp phát triển khai công tác bình ổn thị trường lúa gạo.
Theo đó, trước tình hình thị trường lúa gạo trong nước đang có diễn biến tăng giá, để thực hiện công tác bình ổn thị trường, đảm bảo nguồn cung lúa gạo, kiểm định mức tăng giá thực hiện trong nước, Bộ Công Thương đề nghị UBND các tỉnh, thành phố phối hợp trong công tác bình ổn thị trường.
UBND các tỉnh cần chỉ đạo Sở Công Thương địa phương đốc đốc doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường có phương án về nguồn hàng lúa gạo, chắc chắn cung ứng cho thị trường từ nay đến cuối năm 2023 và giai đoạn Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024 với giá bình ổn.
Các tỉnh được yêu cầu chỉ đạo doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn duy trì lượng lúa gạo dự kiến lưu trữ bình ổn thị trường theo quy định để sẵn sàng cung cấp ứng dụng ra thị trường khi cần thiết; thực hiện việc thu mua giao hàng theo tiến độ hợp lý và cân đối lượng xuất khẩu với mục đích đảm bảo nguồn cung cấp cho thị trường trong nước.
Đặc biệt, Bộ Công Thương khuyến cáo các doanh nghiệp "tránh mua gom ồ ạt gây bất ổn cho thị trường, mất cân đối cũng như cầu cục bộ, đẩy giá thóc gạo trong nước tăng bất hợp lý", Văn bản hoả tốc của Bộ Công Thương có ghi.
Về giá lúa gạo trên thị trường, theo Bộ Công Thương, giá lúa gạo hôm nay ngày 4/8/2023 tại thị trường trong nước tiếp tục tăng 200 – 300 đồng/kg, giá gạo xuất khẩu cũng tăng 5 USD/tấn. Cụ thể, ngày 4/8/2023 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng 100 - 200 đồng/kg với nhiều chủng loại lúa. Theo đó, tại kho An Giang hôm nay, giá lúa OM 5451 tăng 200 đồng/kg lên mức 6.800 – 7.200 đồng/kg; OM 18 tăng 100 đồng/kg lên mức 6.900 – 7.100 đồng/kg; nếp Long An (tươi) ở mức 6.500 - 6.900 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg; nếp AG (khô) ở mức 7.700 - 7.900 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg.
Với các chủng loại còn lại, giá đi ngang. Cụ thể, giá lúa IR 504 ở mức 6.800 – 7.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức 6.900 - 7.100 đồng/kg; lúa Nhật cũng ổn định ở mức 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 13.000 đồng/kg.
Với lúa nếp, giá nếp An Giang tươi ở mức 6.300 – 6.600 đồng/kg; nếp Long An (khô) có giá 7.700 - 7.900 đồng/kg. Với mức giá này, hiện giá lúa tại khu vực đã tăng 100 – 300 đồng/kg so với tuần trước, tăng 400 – 700 đồng/kg so với tháng trước và tăng 400 – 1.600 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2022.
Trên thị trường xuất khẩu gạo, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng 5 USD/tấn. Cụ thể, gạo 5% tấm giao dịch ở mức 598 USD/tấn (13,7 triệu đồng/tấn), tăng 5 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 578 USD/tấn (13,2 triệu đồng/tấn), tăng 5 USD/tấn. Riêng gạo thơm Jasmine (gạo Thái thơm) xuất khẩu lên mức 733 USD/tấn (gần 17 triệu đồng/tấn), tăng 45 USD/tấn so với ngày 1/8 và tăng 110 USD/tấn so với ngày 20/7.
Trước đó, ngày 20/7 (đúng thời điểm Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng), giá gạo Việt Nam chào bán với mức giá 533-537 USD/tấn (phân khúc 5% tấm) và 513-517 USD/tấn, tăng thêm 15 USD/tấn đối với cả 2 phân khúc là gạo 5% tấm và gạo 25% tấm.
Theo số liệu mới cập nhật của Tổng cục Hải quan, tính đến hết ngày 15/7, cả nước xuất khẩu gần 4,5 triệu tấn gạo, kim ngạch gần 2,4 tỷ USD, giá bình quân hơn 533 USD/ tấn (tương đương 12,6 triệu đồng/tấn), sản lượng tăng 17,48% và kim ngạch tăng 28,04% so với cùng kỳ năm trước.
Theo thống kê, lượng gạo xuất khẩu đã tăng hơn 700.000 tấn so với cùng kỳ năm trước, kim ngạch cũng tăng hơn 540 triệu USD. Cùng kỳ năm trước, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ khoảng 491 USD/tấn, tương đương hơn 11,3 triệu đồng/tấn. Như vậy, giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam tăng 1,3 triệu đồng/tấn, tương đương tăng trên 11,3% so với cùng kỳ năm trước.
Mới đây, trước những diễn biến bất thường của thị trường gạo thế giới và việc Ấn Độ, Nga, UAE cấm xuất khẩu gạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có văn bản đề xuất Thủ tướng ban hành chỉ thị về tăng cường công tác xuất khẩu gạo trong tình hình mới; đề xuất Bộ Công Thương đàm phán để đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, tận dụng cơ hội chiếm lĩnh các thị trường mới khi nhu cầu và giá gạo xuất khẩu đang tăng mạnh.
Bộ NN&PTNT cho biết sẽ theo dõi, dự báo và nắm chắc tình hình sản xuất, tăng cường phòng chống sinh vật gây hại, chủ động ứng phó với các diễn biến bất lợi của thời tiết để bảo vệ an toàn các vụ sản xuất đảm bảo mục tiêu 43 triệu tấn lúa của năm nay.
Bộ chỉ đạo các địa phương bám sát đồng ruộng, tổ chức sản xuất đúng theo các hướng dẫn kỹ thuật để đảm bảo năng suất, sản lượng theo kế hoạch; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương có liên quan xử lý kịp thời các rào cản kỹ thuật để đảm bảo tăng khối lượng và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Bộ Công Thương tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu gạo trên cơ sở theo dõi chặt chẽ và dự báo sát tình hình xuất, nhập khẩu; nhu cầu tiêu thụ; giá cả lương thực trong khu vực và trên thị trường thế giới để có các biện pháp chủ động, linh hoạt điều tiết việc kinh doanh, xuất nhập khẩu gạo để đảm bảo nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Bộ này cũng được đề xuất phối hợp với Bộ Ngoại giao, chủ động đàm phán để đa dạng thị trường xuất khẩu, tận dụng cơ hội chiếm lĩnh các thị trường mới, tiềm năng để tăng cường tính cạnh tranh cho ngành hàng gạo Việt Nam.
UBND các tỉnh, thành phố được đề xuất chỉ đạo các cơ quan chuyên môn theo dõi, bám sát đồng ruộng; chủ động và linh hoạt trong điều hành sản xuất lúa gạo đảm bảo đạt và vượt các mục tiêu năng suất, sản lượng theo kế hoạch trên cơ sở tuân thủ đúng các quy định kỹ thuật và an toàn thực phẩm của Việt Nam cũng như nước nhập khẩu.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng yêu cầu Hiệp hội Lương thực Việt Nam chủ động nắm bắt các thông tin về thị trường lúa gạo thế giới, nhu cầu và năng lực của các thương nhân xuất nhập khẩu gạo để thông tin kịp thời đến cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và cộng đồng sản xuất, kinh doanh lúa gạo tại Việt Nam.