Theo ông Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Ipsard), chi phí logistics nông nghiệp ở Việt Nam cao hơn Thái Lan 6%, Malaysia 12% và cao hơn Singapore 300%.
Trên tổng thể, chi phí logistics của Việt Nam chiếm khoảng hơn 20% GDP; trong khi đó, mức chi phí logistics trung bình trên thế giới, chỉ khoảng 11% GDP.
"Dịch vụ logistics nói chung và logistics nông nghiệp còn tồn tại nhiều hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả chuỗi cung ứng nông sản", ông Phong nhìn nhận thực tế, đồng thời cho hay, tỷ lệ hao hụt và thất thoát trong chuỗi nông sản cao từ 25 - 30%, trong đó thủy hải sản 35%, rau quả và trái cây có thể lên đến 45%. Chi phí logistics chiếm 12% giá thành sản phẩm ngành thủy sản, chiếm 23% giá thành đồ gỗ, chiếm 29% giá thành rau quả, chiếm 30% giá thành gạo.
Lý giải về điều này, theo bà Tạ Thu Trang, Trưởng phòng Tư vấn Thương mại và đầu tư - Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (Ipsard), hạ tầng giao thông chưa phát triển tương xứng và mất cân đối về lượng vận chuyển. Các dịch vụ đem lại giá trị gia tăng như, xử lý kiểm định thực vật còn thiếu và yếu. Chuỗi cung ứng lạnh hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Chưa có hệ thống thông tin logistics đầy đủ dịch vụ hỗ trợ tốt cho sản xuất và các vệ tinh kết nối vùng nguyên liệu đến các trung tâm lớn hơn; hệ thống logistics thương mại biên giới chưa phát triển đúng với tiềm năng và nhu cầu thực tiễn, chưa có kho ngoại quan. Doanh nghiệp cung ứng logistics nông nghiệp còn nhỏ lẻ và phân bố không đồng đều theo vùng.
Mặc dù, luật pháp điều chỉnh các hoạt động logistics tại Việt Nam hiện nay tương đối đầy đủ. Các chủ trương, quy định chính sách đã được ban hành để tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh thúc đẩy hoạt động logistics phát triển bền vững. Việt Nam ngày càng quan tâm hơn đến việc hình thành các trung tâm logistics/trung tâm đầu mối nông nghiệp và cả trung tâm thu gom nông sản. Tuy nhiên, chưa có chiến lược đề án tổng thể tích hợp về phát triển logistics nông nghiệp, cũng như chưa có chiến lược, quy hoạch phát triển logistics nông nghiệp tầm nhìn dài hạn.
Chính sách hỗ trợ cho phát triển logistics phục vụ các vùng sản xuất kinh doanh nông nghiệp còn thiếu, chưa có những ưu tiên cho các nhà đầu tư vào dịch vụ logistics. Chính sách phát triển các trung tâm liên kết nông sản, trung tâm đầu mối nông nghiệp mới chỉ trong giai đoạn thí điểm hoặc đề xuất xây dựng chưa có hướng dẫn.
Theo các doanh nghiệp, hạ tầng logistics đang là rào cản ảnh hưởng đến tiến độ xuất khẩu nông lâm thủy sản, khả năng tận dụng cơ hội kinh doanh.
Ông Tô Mạnh Hà, Quản lý kinh doanh, Ban Quản lý Nông - lâm - thủy sản (Tập đoàn T&T), cho biết Việt Nam nằm sát thị trường lớn Trung Quốc nhưng hạ tầng logistics chưa khai thác được lợi thế này.
Hiện nay, một xe sầu riêng đi từ Đắk Lắk đến Lạng Sơn để xuất khẩu sang Trung Quốc mất 7 ngày nếu cửa khẩu thông thoáng. Nếu ùn tắc, xe phải nằm chờ, riêng tiền dầu chạy xe tốn thêm 2,5 triệu đồng/ngày.
"Nếu Lạng Sơn hay các cửa khẩu lớn có đủ bến bãi tập trung, xe hàng đưa lên vào đó nằm chờ xuất khẩu thì không có chuyện ùn tắc", ông Hà nói.
Từ góc nhìn doanh nghiệp logistics, ông Lê Minh, Giám đốc Công ty cổ phần kho vận Việt Nam, than phiền logistics nông nghiệp nhiều năm nay "bị mang tiếng là giá cao". Nhưng doanh nghiệp cũng có nỗi khổ riêng, phải đầu tư rất lớn từ xe cộ, kho bãi, thiết bị bốc xếp hàng… và chỉ mong có đủ hàng để chạy.
Theo ông Minh, nguyên nhân đến từ đặc điểm nhiều loại nông sản có thời vụ, thu hoạch rộ trong thời gian rất ngắn. Các vùng sản xuất nhỏ lẻ rất khó gom hàng tập trung và tính liên kết, phối hợp giữa các đơn vị sản xuất còn yếu, mạnh ai nấy làm.
"Nhiều chuyến xe từ phía Nam ra phía Bắc chở tối đa 25 tấn nhưng thực tế có những chuyến chỉ có hơn chục tấn hàng thôi. Xót xa chạy xe rỗng, chúng tôi thuyết phục khách hàng ghép chuyến để giảm chi phí nhưng họ không chịu. Chưa kể doanh nghiệp logistics thường xuyên bị lật kèo, khách ký hợp tác theo năm nhưng nếu có đơn vị khác chào giá mỗi chuyến thấp hơn vài trăm nghìn đồng là họ đơn phương phá hợp đồng", ông Minh nói.
Theo ông Tô Mạnh Hà, để nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu, đầu tư logistics trong nông nghiệp nên tập trung vào những ngành hàng thế mạnh, giá trị xuất khẩu ít nhất từ 1 tỉ USD trở lên.
Ông Lê Minh cho rằng, để nâng cao giá trị, sức cạnh tranh cho nông sản thì giữa khâu tổ chức sản xuất và logistics phải hợp tác chặt chẽ để "đôi bên cùng có lợi".
Chia sẻ kinh nghiệm từ quốc tế, bà Đinh Thị Bảo Linh, Phó giám đốc Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương), cho biết Việt Nam nên tham khảo cách làm của Đài Loan. Từ năm 2021, Đài Loan bắt đầu thúc đẩy và tăng nguồn lực đầu tư phát triển các chuỗi lạnh cho sản phẩm nông nghiệp, đến nay đã thiết lập được các trung tâm logistics hàng đầu trong ngành trồng trọt, ngư nghiệp, chăn nuôi.