Độ chua thanh, thơm nhẹ của trái bứa làm cho hương và vị của các món ăn luôn trở nên đặc biệt.
Cây bứa mọc hoang nhiều nhất ở những nơi có đồng bào dân tộc Chăm sinh sống. Có cây bứa cổ thụ sinh trưởng rất lâu năm, tỏa cành che mát cả khoảng đất rộng.
Hầu hết cây bứa ở An Giang mọc tự nhiên. Có cây bứa cổ thụ đến cả trăm năm tuổi, sinh trưởng rất khỏe. Dân số “nảy nở”, nên số lượng cây bứa ngày càng giảm, nhường chỗ cho nhà cửa và các loại cây kinh tế khác.
Cây bứa dễ nhận diện hơn vào mùa ra trái. Cây bứa càng cao lớn, trái càng sai cành chi chít.
Mùa trái bứa bắt đầu đúng dịp mùa nước nổi về, kéo dài trong 3 tháng hoặc hơn. Trái bữa nhỏ nhắn màu xanh lẫn với màu lá, khi chín chỉ hơi ngả vàng và có rất nhiều mủ.
Từ loại gia vị thường nhật trong bữa ăn, ngày nay do hiếm dần, trái bứa được thu hoạch đem bán. 1 cây bứa có thể hái được 100kg trái bứa trong suốt mùa, giá 30.000 đồng/kg.
Qua mùa bứa, muốn tìm trái tươi không dễ, đồng bào dân tộc Chăm ở An Giang trữ lại bằng cách chẻ mỏng phơi khô, hoặc làm muối chua bảo quản trong tủ lạnh.
Trong chế biến các món ăn, vì có vị chua, trái bứa được sử dụng tương tự chanh, me, trái bần, trái giác... Mùa này, nước lũ mới về, ngon nhất là thưởng thức canh chua cá linh nấu trái bứa hoặc cá linh non kho trái bứa.
Cá linh non thịt mềm, ngọt, ít xương, người ta chỉ cần móc ruột, để nguyên vảy, rửa sạch. Nồi cá kho chỉ cần 1 trái bứa là biến đổi hương vị thấy rõ. Cá linh kho có vị mặn mòi được trung hòa bởi độ chua thanh, dìu dịu rất dễ ăn.
Người miền Tây, trong đó có An Giang đãi khách, chỉ cần sửa soạn nồi cá linh kho lạt, nồi lẩu, hay nồi canh chua, rồi thả vào trái bứa, bên mâm cơm kèm theo đặc sản đồng quê là cá đồng, đĩa rau sống đầy ắp.
Trái bứa vừa chín mềm thì dầm ra như dầm me. Người thích ăn bứa, không diễn tả mùi vị của chúng một cách dông dài, cụ thể, chỉ kết luận "ngon đáo để", khó lẫn vào đâu được.