Thời gian gần đây, một số người dân sống ở khu phố Đỗ Nhuận bức xúc khi tuyến phố này xuất hiện một số nhà xưởng xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp. Trong đó có công trình nhà xưởng số 18 Đỗ Nhuận.
"Đất nông nghiệp chỉ được trồng, cấy, thế nhưng không hiểu công tác quản lý đất đai ở phường Xuân Đỉnh ra sao mà lại để nhà xưởng "mọc" trên đất nông nghiệp, sai mục đích sử dụng đất. Quận Bắc Từ Liêm cũng như TP Hà Nội nhiều năm nay đang ra quân xử lý tình trạng vi phạm trật tự xây dựng, xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp thì dường như tình trạng này vẫn "nguội lạnh" ở địa bàn phường Xuân Đỉnh", một người dân nói.
Thêm nữa, công trình nhà xưởng số 18 Đỗ Nhuận còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về phòng cháy chữa cháy khi kinh doanh loại hình thu mua sắt thép phế liệu khiến người dân lo lắng.
Liên quan đến những vấn đề nói trên, trao đổi với PV Báo điện tử Dân Việt, ông Nguyễn Tự Mạnh - Phó Chủ tịch UBND phường Xuân Đỉnh xác nhận, công trình nhà xưởng số 18 Đỗ Nhuận xây dựng trên đất nông nghiệp, được ông Thuấn mua lại từ bà Đ.T.V, mảnh đất có diện tích hơn 100m2.
Nhà xưởng tồn tại từ thời điểm trước khi vị Phó Chủ tịch phường chuyển công tác về phường Xuân Đỉnh, nên ông không nắm được thời gian công trình này xây dựng.
Cũng theo ông Mạnh, hiện ông Nguyễn Vũ Thiện (em trai ông Thuấn) là chủ cơ sở kinh doanh sắt thép phế liệu số 18 Đỗ Nhuận.
Phó Chủ tịch phường Xuân Đỉnh cũng xác nhận không có cơ quan nào cấp phép về phòng cháy chữa cháy cho cơ sở 18 Đỗ Nhuận. Bởi cơ sở này không đáp ứng điều kiện về phòng cháy chữa cháy. Quá trình kiểm tra phòng cháy chữa cháy trước đây lực lượng chức năng phường Xuân Đỉnh đã khuyến cáo, nhắc nhở và yêu cầu cơ sở ký cam kết.
Thông tin UBND phường Xuân Đỉnh cho biết, hộ ông Nguyễn Vũ Thiện đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh do ông Nguyễn Ngọc Phong- Phó trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch (UBND quận Bắc Từ Liêm) ký.
Trong khi đó, chính vị Phó Chủ tịch phường Xuân Đỉnh cũng cho rằng công trình này xây dựng trên đất nông nghiệp, sai mục đích sử dụng đất, theo quy định không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
Được biết, Khoản 1 Điều 170 Luật Đất đai 2013, nguyên tắc về nghĩa vụ của người sử dụng đất được quy định: Người sử dụng đất phải tuân thủ các quy định sử dụng đất đúng mục đích, tuân theo ranh giới thửa đất, tuân thủ quy định về độ sâu sử dụng trong lòng đất và chiều cao trên mặt đất, bảo vệ các công trình công cộng có trong lòng đất và tuân thủ các quy định pháp luật liên quan khác.
Theo quy định trên, đất nông nghiệp được định nghĩa là đất dùng để phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng... Do đó, nếu xây dựng nhà tôn trên đất nông nghiệp nhằm hỗ trợ và phục vụ mục đích trồng trọt; hoặc dựng nhà tôn để chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép... và phù hợp với mục đích sử dụng đất, việc dựng nhà tôn trên đất nông nghiệp được phép thực hiện.
Tuy nhiên, nếu nhà tôn được xây dựng nhằm mục đích ở hoặc các mục đích không liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, đó là hành vi không được phép và vi phạm pháp luật. Sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng nhà tôn phục vụ cho hoạt động kinh doanh thương mại không tuân thủ đúng mục đích sử dụng đất.
Trong trường hợp muốn xây dựng nhà tôn để kinh doanh trên đất nông nghiệp, người sử dụng đất phải thực hiện thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Trường hợp người dân xây dựng nhà tôn mà không được phép từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, họ sẽ bị xử phạt hành chính và bắt buộc phải cải tạo đất để đưa trạng thái ban đầu trở lại (đối với những trường hợp đã xây dựng nhà tôn, việc này bao gồm việc dỡ bỏ toàn bộ công trình đã xây dựng).
Theo đó, khoản 4 của Điều 11 Nghị định 91/2019/NĐ-CP, các biện pháp xử phạt áp dụng: Buộc phục hồi trạng thái ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với các trường hợp được quy định tại khoản 1, 2 và khoản 3 của Điều này, trừ những trường hợp đã buộc thực hiện đăng ký đất đai theo quy định; Buộc thực hiện đăng ký đất đai theo quy định đối với các trường hợp đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 22 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Buộc hoàn trả số lợi ích bất hợp pháp thu được từ việc vi phạm trong các trường hợp được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này; số lợi ích bất hợp pháp sẽ được xác định theo quy định tại khoản 1 của Điều 7 của Nghị định này.
Dân Việt sẽ tiếp tục thông tin.