Đề cập về việc đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) cho rằng, việc sớm đầu tư là rất cần thiết.
Thứ nhất, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ giúp hiện thực hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị và triển khai các quy hoạch.
Trong đó, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông hiện đại là nền tảng của bất kỳ một nước nào có công nghiệp hiện đại, thu nhập cao, trong đó vận tải đường sắt là phương thức quan trọng trên các hành lang có khối lượng lớn.
Trong nhiều văn kiện, Đảng và Nhà nước đã xác định mục tiêu đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam nhằm tạo tiền đề quan trọng để đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao như nhiều quốc gia trên thế giới.
Dự án đường sắt tốc độ cao bảo đảm quốc phòng, an ninh các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ; Đông Nam bộ đều xác định cần đầu tư đường sắt tốc độ cao qua địa bàn các vùng.
Dự án này được định hướng đầu tư toàn tuyến theo hình thức đầu tư công, tốc độ thiết 350km/h, vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận chuyển hàng hóa khi cần thiết.
Thứ hai, đường sắt tốc độ cao tăng cường kết nối vùng, miền, các cực tăng trưởng, tạo động lực lan tỏa, mở ra không gian phát triển kinh tế mới, tái cấu trúc các đô thị, phân bố dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Theo tính toán của Bộ GTVT, đường sắt tốc độ cao kết nối 3/6 vùng kinh tế - xã hội, 20 tỉnh/thành phố, 2 đô thị đặc biệt, 17 đô thị loại I quy mô dân số 500.000 dân, khoảng 54% dân số đô thị cả nước, 67% khu kinh tế ven biển, khoảng 63% khu kinh tế, 72% cảng biển lớn loại I-II, đóng góp trên 51% GDP cả nước.
Tính hiệu quả của dự án với ưu thế vận tải khối lượng lớn, nhanh, tin cậy, thuận tiện, đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam sẽ "rút ngắn" khoảng cách giữa các địa phương, vùng miền. Cùng đó, góp phần giảm áp lực tập trung dân số, quá tải hạ tầng ở các đô thị lớn, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba là, đảm bảo nhu cầu vận tải trên hành lang Bắc - Nam, là hành lang vận tải lớn nhất cả nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, tái cơ cấu thị phần vận tải phù hợp lợi thế từng phương thức, góp phần giảm chi phí logistic.
Dự báo đến năm 2050, nhu cầu vận tải hàng hóa khoảng 1,4 - 1,7 tỷ tấn hàng, khoảng 1,1-1,3 tỷ lượt khách; trong đó, vận tải đường sắt đảm nhận khoảng 18,2 triệu tấn hàng (20,5 tỷ tấn-km) và khoảng 122,7 triệu lượt khách (101,3 tỷ hành khách-km).
Về nhu cầu vận tải này, tuyến đường sắt hiện hữu sau khi cải tạo, nâng cấp cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa, tuy nhiên, nhu cầu vận tải hành khách sẽ thiếu hụt lớn nếu không có phương thức vận tải khối lượng lớn, tốc độ cao. Theo kinh nghiệm thế giới, để giải quyết nhu cầu vận tải lớn về hành khách việc lựa chọn đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao là thích hợp, hiệu quả.
Thứ bốn là, đường sắt tốc độ cao tạo tiền đề, động lực phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ. Đường sắt tốc độ cao tạo ra thị trường xây dựng với giá trị khoảng 33,5 tỷ USD; tính cả hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị sẽ tạo ra thị trường về xây dựng khoảng 75,6 tỷ USD, phương tiện, thiết bị khoảng 34,1 tỷ USD và hàng triệu việc làm.
Thứ năm là, đường sắt tốc độ cao giúp phát triển phương thức vận tải bền vững, hiện đại, thân thiện góp phần giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Theo nghiên cứu của Hiệp hội đường sắt thế giới, đường sắt tốc độ cao là phương thức vận tải bền vững, an toàn. Ngân hàng phát triển Châu Á tính toán thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra ở Việt Nam hàng năm khoảng 2,9% GDP cả nước.
Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam sẽ tiết kiệm chi phí thiệt hại do giảm tai nạn giao thông khoảng 849 triệu USD vào năm 2040, khoảng 1.906 triệu USD vào năm 2050.
Ngoài ra, dự án phát thải CO2 thấp hơn máy bay 8,5 lần, thấp hơn ô tô 3,7 lần; chi phí giảm lượng phát thải CO2 sẽ tiết kiệm khoảng 67 triệu USD vào năm 2040, khoảng 172 triệu USD vào năm 2050, tiết kiệm tài nguyên.
Đường sắt tốc độ cao sử dụng năng lượng điện là một trong các giải pháp tối ưu chuyển đổi phương thức vận tải trong bối cảnh Việt Nam đang ưu tiên phát triển nền kinh tế các-bon thấp, đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 như cam kết tại Hội nghị COP26.
Đáng chú ý, đường sắt tốc độ cao phần lớn sử dụng kết cấu cầu, hầm ( chiếm khoảng 70% chiều dài tuyến) góp phần hiệu quả để ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn chế chia cắt cộng đồng.
Bên cạnh đó, tuyến đường sắt hiện hữu bị hạn chế khổ giới hạn nên việc đầu tư đường sắt tốc độ cao có thể vận chuyển các loại hàng hóa đặc chủng phục vụ quốc phòng, an ninh, hình thành thêm trục dọc cơ động khi có tình huống khẩn cấp.
Để khai thác đường sắt tốc độ cao hiệu quả, Bộ GTVT tính toán dự án được bố trí 23 ga, khoảng cách trung bình 50 - 70 km với nguyên tắc các ga phải tiếp cận trung tâm đô thị, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nhanh nhất và đô thị phải có trên 500 nghìn dân mới bố trí ga. Trong tổ chức khai thác chạy tàu, không phải ga nào tàu cũng dừng.
Bộ GTVT lấy kinh nghiệm tại tuyến Bắc Kinh - Thượng Hải (Trung Quốc), quốc gia này tổ chức nhiều mác tàu trong cùng 1 ngày. Giờ cao điểm/dịp cao điểm nhu cầu cao khai thác tần suất, tốc độ cao. Suốt chặng tuyến, có những mác tàu được xây dựng biểu đồ chạy tàu chỉ dừng một vài ga.
Về vận tải, đây là tuyến đường sắt chủ yếu phục vụ hành khách, chở hàng khi cần thiết (hàng nhẹ, có giá trị cao). Trong quy hoạch, phân bổ hàng khô, hàng rời với các phương thức vận tải khác với chi phí hợp lý hơn.
Đối với vận chuyển hàng hóa bằng tàu đường sắt tốc độ cao, kinh nghiệm ở một số quốc gia châu Âu, phương án tổ chức tàu thực hiện vào ban đêm do đây là thời điểm hành khách ít đi lại.