Nếu như vua Tự Đức ban tặng Hương Tích là "Nam thiên đệ nhất động", chúa Trịnh Sâm ban tặng Bích Động "Nam thiên đệ nhị động", thì Địch Lộng cũng được vua Minh Mạng ban tặng "Nam thiên đệ tam động", có nghĩa động đẹp thứ 3 ở trời Nam.
Động và chùa Địch Lộng hiện nay tọa lạc tại xã Gia Thanh (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Theo sử sách, vào năm 1739, một tiều phu lên núi đốn củi đã phát hiện hang động này, bên trong có nhiều nhũ đá giống hình tượng Phật nên đã lập bàn thờ ở đây.
Đến năm 1740, người dân mở đường lập chùa thờ Phật với tên chữ "Nham Sơn động Cổ Am tự" (có nghĩa là chùa Cổ Am và động Nham Sơn).
Để đến được động Địch Lộng, từ chân núi du khách phải leo 105 bậc đá mới lên đến cửa động. Sân trước động có phủ thờ Bà chúa Thượng Ngàn, phủ thờ Đức Thánh Mẫu. Bên trong động có thờ Phật nên nhân dân địa phương thường gọi là chùa Địch Lộng.
Tương truyền, nơi đây được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ "Nam thiên đệ tam động" (động đẹp thứ 3 trời Nam) nhân một chuyến tuần du vào năm 1821.
Chùa và động cũng là căn cứ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nơi lưu giữ quân khí, xưởng sản xuất vũ khí của quân và dân ta.
Động và chùa Địch Lộng được xếp hạng di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia năm 1990. Quần thể di tích danh thắng này gồm có đình đá (16 cột đá nguyên khối), đền thờ Lý Quốc Sư (dân gian còn gọi là Thánh Nguyễn), chùa Hạ, khu vườn tháp ở hai bên.
Bên cạnh đó, hang Địch Lộng có 2 khu vực, được phân chia theo lối vào là hang Sáng và hang Tối với vô số nhũ đá đủ hình dáng như: Hình tượng Phật, hình con voi quỳ gối, hình sư tử, ngựa phục, voi uống nước chum,...
Đứng ở cửa động, du khách nghe được tiếng gió thổi vi vu như tiếng sáo thổi. Chính vì thế dân gian gọi đây là cây sáo gió khổng lồ bằng đá và lấy tên là Địch Lộng ("Địch" nghĩa là sáo, "Lộng" nghĩa là gió).
Qua tìm hiểu, cứ đến ngày 6 và 7 tháng 3 âm lịch hàng năm, người dân xã Gia Thanh (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) lại tổ chức lễ hội chùa Địch Lộng, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no, hạnh phúc…