Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Ngày nay, không chỉ ở Hưng Yên, tên của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám đã trở thành tên những địa danh, những con đường, khu phố, công viên, trường học trên mọi miền của Tổ quốc.
Tự hào và tưởng nhớ, tôn vinh người con ưu tú của quê hương đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, cuối năm 2017, UBDN tỉnh Hưng Yên đã khởi công tu bổ, tôn tạo đền thờ danh nhân Hoàng Hoa Thám, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế tại quê hương của ông, xã Dị Chế (Tiên Lữ).
Theo Danh nhân Hưng Yên, Hoàng Hoa Thám tên thật là Trương Văn Nghĩa, sinh năm 1845 tại làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ nay thuộc xã Dị Chế (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên).
Nhiều năm sau sự hy sinh của Hùm thiêng Yên Thế cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì ngưỡng mộ người anh hùng Yên Thế, Đơrao Sacbone một sĩ quan Pháp đã bỏ nhiều năm đi tìm mộ Hoàng Hoa Thám và năm 1944, ông đã tìm thấy ngôi mộ nằm tại Đồi Ngô thuộc cánh đồng Hữu Phúc (tỉnh Bắc Giang).
Với cảm xúc kính trọng, vị sỹ quan Pháp viết: “Khi mặt đất phủ bóng tối đã lộ ra dấu tích của ông và đồn Hữu Nhuế, tôi cảm thấy mình bay bổng cùng huyền thoại về người anh hùng và chắc chắn sẽ sống mãi với các thế hệ người Việt Nam”.
Từ năm 1887 – 1913, Đề Thám là lãnh tụ của nghĩa quân Yên Thế, với chiến khi và địa bàn hoạt động quanh vùng Bắc Giang – Thái Nguyên – Hưng Hóa.
Giặc Pháp nhiều lần phối hợp với Tổng đốc tay sai Pháp là Lê Hoan một mặt đàn áp, mặt khác dung chiêu hàng nhưng chúng vẫn không khuất phục được ông.
Đến năm 1894, chúng chịu điều đình giảng hòa và cắt cho ông 6 tổng gồm 22 làng ở Phồn Xương. Bên ngoài ông giả vờ giảng hòa nhưng bên trong ông cho lập đồn điền, xây dựng cơ sở, liên hệ với văn nhân yêu nước như Phan Bội Châu, Phân Châu Trinh, Phạm Văn Ngôn, mở rộng địa bàn hoạt động.
Đảng Nghĩa Hưng cũng do ông làm lãnh tụ. Từ đấy suốt 10 năm ông liên tục chiến đấu, gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp và bọn tay sai. Sau chúng phải huy động lực lượng lớn, dốc sức tấn công, Ông bị thua nặng phải trốn vào rừng.
Vợ ông là bà Đặng Thị Nhu cũng rất nổi tiếng, đã trợ giúp ông nhiều trong vùng đồn điền và trong trận mạc. Trong dân gian còn lưu truyền nhiều giai thoại kể về tài đánh giặc của vợ chồng ông.
Theo di chúc, bà được an tang tại Phồn Xương, nơi người cha nhiều năm tháng xây dựng căn cứ chống giặc. Dấu tích thành Phồn Xương nay vẫn còn, tại đây có tượng đài, nhà lưu niệm về Đề Thám.