Vì vậy, trong quá trình xây dựng nông thôn mới, rất nhiều giếng làng trên địa bàn tỉnh đã được người dân chú trọng khôi phục, sửa chữa và lưu giữ như một phần ký ức của cha ông để lại.
![]() Nhiều giếng làng vẫn được người dân chú trọng khôi phục, sửa chữa và lưu giữ. |
Đến thôn Văn La, xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh), cách quốc lộ 1A khoảng 500m, người đi đường dễ dàng nhận thấy 4 cái giếng to, nhỏ khác nhau nằm thẳng một hàng, mà người dân hay gọi là giếng Hang hay giếng Tiên.
Theo các cụ cao niên trong làng, thì giếng làng Văn La đã có cách đây hàng trăm năm với 7 cái giếng đất nằm thẳng hàng, bốn mùa cho bà con nguồn nước trong xanh.
Trước đây, làng Văn La có quy định rõ ràng: giếng vuông là để phục vụ cho đàn ông tắm gội, giếng tròn nhỏ là nơi sinh hoạt của chị em trong làng, còn giếng tròn to là dùng sinh hoạt, nấu nướng. Cách đây hơn 20 năm, giếng vẫn cung cấp toàn bộ nguồn nước ăn uống cho người dân trong làng.
Đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đời sống ngày càng phát triển, nhà nhà trong thôn đều đào, khoan giếng để thuận tiện hơn trong sinh hoạt, khiến cho giếng làng ít được người dân sử dụng, giếng Hang cũng chỉ còn 4 cái vì người dân đã san lấp 3 giếng mở rộng diện tích phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Ông Lê Xuân Hồng, trưởng thôn Văn La cho biết: Trước nguy cơ giếng làng biến mất, cấp ủy, chính quyền và Ban công tác Mặt trận thôn tích cực vận động người dân địa phương, những người con Văn La sinh sống ở các nơi, các doanh nghiệp, nhà hảo tâm đóng góp để trùng tu công trình giếng làng.
Năm 2004, từ nguồn kinh phí xã hội hóa và đóng góp của con em đang công tác xa quê, nhân dân thôn Văn La đã xây dựng kiên cố bờ bao quanh thành giếng góp phần tạo nên hình ảnh làng quê nông thôn vừa tươi mới, vừa cổ kính, mộc mạc.
Do vậy, cùng với việc cải tạo đường giao thông nông thôn, nhân dân thôn Pháp Kệ đã đồng thuận đóng góp sức người, tiền của để xây dựng lại giếng làng với hệ thống tường gạch bao quanh và xem như là “báu vật” của làng.
Chất liệu để xây giếng chủ yếu là gạch, đá. Một số giếng có khung gỗ vuông ở dưới thành gạch. Khung gỗ này giữ vai trò quan trọng bảo đảm tuổi thọ của giếng, giữ cho thành giếng ổn định lâu dài không bị sụt lún.
Đặc biệt, nước giếng rất trong và mát dù đã tồn tại qua hàng trăm năm. Ông Phan Văn Mường (79 tuổi), một bậc cao niên ở thôn Pháp Kệ cho biết: “Khi tôi sinh ra, giếng làng đã có rồi. Nghe ông bà, cha mẹ kể lại thì giếng này đã có từ đời cụ, kỵ. Tôi nhớ lúc còn bé vẫn theo mẹ ra giếng gánh nước về nhà dùng hàng ngày. Cả làng cùng tề tựu trò chuyện, trẻ con đùa nghịch, trai gái hò hẹn...”.
Nhưng giếng cổ ở Quảng Phương vẫn trường tồn với bề dày lịch sử, văn hóa quê hương, người dân lập cả một ngôi miếu nhỏ gần giếng để thờ thần giếng hay coi giếng như "báu vật" mang lại điềm lành cho làng.
Và cứ vào dịp đầu tháng giêng, miếu được người dân chọn làm nơi giỗ Thành hoàng làng và dâng lễ cúng trời đất cho dân làng một năm mưa thuận gió hòa, cây cối xanh tốt, người dân được bình an.
Do cuộc sống của người dân ngày một phát triển, mỗi gia đình đều đã có giếng riêng, nước cũng mát ngọt, trong lành nên không còn người dùng giếng làng nữa, bởi vậy giếng làng ngày một xuống cấp.
Sau khi tôn tạo giếng Cây Dừa với số tiền 36 triệu đồng, thôn Bắc Cổ Hiền tiếp tục tôn tạo giếng Miệu với số tiền ban đầu 63 triệu đồng và hàng ngày người dân vẫn thay nhau thường xuyên chăm sóc, gìn giữ dòng nước mát lành cho muôn đời sau.