Tưởng Giới Thạch năm 1913. (Ảnh: wikipedia).
Tưởng Giới Thạch sinh ra trong một gia đình bình thường ở Phụng Hóa, Chiết Giang. Năm ông 8 tuổi, ông nội và cha lần lượt qua đời, người mẹ là Vương Thái Ngọc một mình nuôi ông khôn lớn. Mẹ của Tưởng Giới Thạch quản giáo con trai rất nghiêm khắc. Mỗi ngày ngoài việc đốc thúc việc học, bà còn dạy cho con trai lễ tiết đối nhân xử thế, để cho ông chia sẻ việc nhà với người làm thuê, bồi dưỡng cho ông chí hướng tự lập và phẩm cách khoan hậu nhân ái. Tưởng Giới Thạch cũng rất hiếu thuận với mẹ.
Từ trái sang phải: Mẹ của Tưởng Kinh Quốc là Mao Phúc Mai, bà nội Vương Thái Ngọc, Tưởng Kinh Quốc thời thơ ấu và cha Tưởng Giới Thạch (ảnh: chụp năm 1910).
Thái Hư đại sư trong tự truyện của mình từng đề cập việc ông cùng Tưởng Giới Thạch kết giao lần đầu tiên. Ngày 15 tháng 8 năm 1927, Tưởng Giới Thạch ra tuyên bố từ chức về vườn, ngày hôm sau ông đã trở về chùa Tuyết Đậu, thường ở trong chùa.
Bởi vì Hoàng Ưng Bạch nhiều lần nhắc tới Thái Hư đại sư trước mặt Tưởng Giới Thạch, cho nên Tưởng Giới Thạch quyết định mời Thái Hư đại sư đến để gặp mặt. Khi gặp mặt, hai người người đều cảm thấy như gặp lại cố nhân. Khi thất ý trong giới chính trị, Tưởng Giới Thạch còn muốn mời Thái Hư cùng nhau đến Nhật Bản nghiên cứu Dương Minh thiền và Phật học. Về sau bởi vì lý do chính trị, mới từ bỏ ý định này. Nhưng Tưởng Giới Thạch và Thái Hư kết giao rất mật thiết. Vào Tết Trung thu năm đó, Tưởng Giới Thạch còn mời Thái Hư giảng giải "Tâm Kinh", cũng mấy lần bỏ tiền tài trợ Thái Hư du lịch khảo sát Âu Mỹ. Ông còn giới thiệu các chính khách lúc bấy giờ đến gặp mặt Thái Hư, ở mọi phương diện đều trợ giúp Thái Hư đại sư khởi xướng thành lập "Phật học hội Trung Quốc"...
Năm 1943, Thế chiến II bước vào giai đoạn gay cấn. Lâm Sâm, Chủ tịch Trung Hoa Dân quốc lúc bấy giờ muốn mời lão hòa thượng Hư Vân đến Trùng Khánh tổ chức "Pháp hội giải tai ương hộ quốc”.
Hòa thượng Hư Vân. (Ảnh Internet).
Năm 1949, Tưởng Giới Thạch rút về Đài Loan, vẫn kiên quyết mang theo Phật sống Chương Gia (Changkya Khutukhtu) và các cao tăng Hán Tạng cùng về Đài Loan. Từ đó có thể thấy rằng, dù đã được rửa tội nhập lễ Cơ Đốc giáo, nhưng tình cảm và sự coi trọng của ông đối với Phật giáo vẫn không suy giảm một chút nào.
Sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời nhiều năm, phu nhân Tống Mỹ Linh cuối cùng đã nói ra chân tướng: Cả cuộc đời Tưởng Giới Thạch luôn vững tin theo "Dương Minh Thiền", từng chép "Kinh Lăng Nghiêm" cho mẹ là Vương phu nhân, còn được giác ngộ từ một vị lão hòa thượng ở chùa Tuyết Đậu, ấn tượng quá sâu sắc. Vì vậy sau khi lớn lên cho đến mãi về sau, cả đời Tưởng Giới Thạch đã không để tóc, như để tỏ tấm lòng là đệ tử nhà Phật.