Giá thép giao kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn giao dịch Thượng Hải cuối tuần này giảm 117 nhân dân tệ, xuống mức 4.100 nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt tại Singapore cũng giảm và có tuần giảm, do thị trường chuyển tập trung sang các hạn chế Covid-19 tại nước sản xuất thép hàng đầu thế giới – Trung Quốc, làm lu mờ lạc quan về các biện pháp kích thích kinh tế tại nước này.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn Singapore giảm 1% xuống 112,45 USD/tấn và có tuần giảm thứ 4 liên tiếp trong 5 tuần.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Đại Liên tăng 0,7% lên 755,5 nhân dân tệ/tấn, trong phiên có lúc đạt 782 nhân dân tệ/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,8%, thép cuộn cán nóng giảm 0,4%, trong khi thép không gỉ tăng 2,1%.
Giá thép Trung Quốc vẫn nằm trong xu hướng giảm từ cuối tháng 4 tới nay. Tuy có phục hồi vào những ngày cuối tháng 5 nhưng sau đó lại nhanh chóng giảm mạnh. Riêng giá thép thanh xây dựng đã giảm gần 11%, dao động quanh mức 4.600 nhân dân tệ/tấn, tương ứng khoảng 690 USD/tấn trong tháng 6.
Trong tuần kết thúc ngày 19/6, giá thép xây dựng giảm 180 - 280 nhân dân tệ/tấn, giá thép tấm giảm 70 - 170 nhân dân tệ/tấn, giá thép cán nóng HRC giảm 150 - 260 nhân dân tệ/tấn, giá thép cán nguội CRC giảm 130 - 230 nhân dân tệ/tấn.
Hiện nay, giá quặng sắt nhập khẩu giảm mạnh, trong bối cảnh thị trường sắt thép bất ổn, giá thép bán thành phẩm của Trung Quốc cũng giảm mạnh, do nhu cầu hạ nguồn yếu, nhiều nhà phân phối sẵn sàng bán hàng với giá thấp. Tương tự, giá phế liệu nội địa của Trung Quốc cũng sụt giảm. Các nhà máy thép đang phải đối mặt với áp lực mua bán và sản xuất khi tỷ suất lợi nhuận suy yếu. Dự báo, giá thép cacbon thông thường nội địa của Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm sang cả tháng 7.
Theo Fitch Ratings, những lo ngại về nguồn cung (chiến tranh Ukraine - Nga và các chuyến hàng quặng sắt từ Brazil và Australia giảm dần) đã hỗ trợ giá, bất chấp sản lượng thép ở Trung Quốc sụt giảm so với cùng kỳ do quy định về chính sách và nhu cầu tiêu thụ thấp hơn. Mặc dù Trung Quốc đang dần nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội, nhưng hoạt động xây dựng phục hồi khá chậm và các công ty sản xuất còn do dự mở cửa trở lại. Và theo Fitch, giá thép có thể sẽ tăng nếu tiêu thụ thép phục hồi vào nửa cuối năm nay.
Theo báo cáo triển vọng ngắn hạn (SRO) cho năm 2022 và 2023 của Hiệp hội Thép Thế giới (Worldsteel) mới đây, tổ chức này dự báo nhu cầu thép thế giới sẽ tăng 0,4% vào năm 2022 đạt 1.840,2 triệu tấn sau khi tăng 2,7% vào năm 2021. Trong năm 2021, sự phục hồi sau cú sốc đại dịch trở nên mạnh mẽ hơn dự kiến ở nhiều khu vực, bất chấp các vấn đề về chuỗi cung ứng và làn sóng Covid-19 vẫn tiếp diễn. Tuy nhiên, sự giảm tốc mạnh hơn dự đoán ở Trung Quốc đã dẫn đến tăng trưởng nhu cầu thép toàn cầu thấp hơn trong năm 2021.
Sang năm 2022 - 2023, các chuyên gia cho rằng triển vọng và dự báo đưa ra trong bối cảnh xung đột Nga - Ukraine là không chắc chắn. Kỳ vọng về sự phục hồi tiếp tục và ổn định sau đại dịch đã bị lung lay bởi cuộc chiến ở Ukraine và lạm phát gia tăng. Dự báo của Worldsteel giả định rằng cuộc đối đầu ở Ukraine sẽ kết thúc vào năm 2022 nhưng các lệnh trừng phạt đối với Nga phần lớn sẽ vẫn còn. Ngoài ra, tình hình địa chính trị xung quanh Ukraine đặt ra những tác động lâu dài đáng kể đối với ngành thép toàn cầu. Trong số đó có khả năng điều chỉnh lại các dòng chảy thương mại toàn cầu, sự thay đổi trong thương mại năng lượng và tác động của nó đối với quá trình chuyển đổi năng lượng và tiếp tục cấu hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu.
Về thị trường thép trong nước, giá thép hôm nay (10/7), ghi nhận các thương hiệu thép trong nước không có biến động sau khi giảm giá mạnh lần thứ 8 liên tiếp từ 200.000-360.000 đồng/tấn từ ngày 9/10.
Theo đó, tại khu vực miền Bắc, Hòa Phát điều chỉnh giảm 360.000 đồng/tấn và 200.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 và thép thanh vằn D10 CB300. Sau điều chỉnh, giá hai loại này còn 16,24 triệu đồng/tấn và 16,6 triệu đồng/tấn.
Với thép Việt Ý, CB240 và D10 CB300 giảm lần lượt 200.000 đồng/tấn và 210.000 đồng/tấn xuống còn 16,16 triệu đồng/tấn và 16,56 triệu đồng/tấn.
Về thép Việt Đức, hai loại thép trên giảm lần lượt 300.000 đồng/tấn và 190.000 đồng/tấn còn 16,06 triệu đồng/tấn và 16,51 triệu đồng/tấn.
Với thép Kyoei, giá hôm nay là 16,06 triệu đồng/tấn và 16,46 triệu đồng/tấn đối với CB240 và D10 CB300 sau khi giảm 200.000 đồng/tấn và 140.000 đồng/tấn theo thứ tự.
Như vậy, trong 2 tháng, giá thép ghi nhận lần giảm thứ 8 với tổng mức giảm đến hơn 3 triệu đồng/tấn, tùy từng thương hiệu và loại thép.
Tuy nhiên, trái ngược với sắt thép, giá một số vật liệu xây dựng khác vẫn đang trên đà tăng mạnh. Điển hình là xi măng đã có 3 lần tăng giá kể từ đầu năm 2022 sau khi giá than đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái do nguồn cung thắt chặt. Giá cát bê tông cũng tăng lên hơn 20% so với hồi đầu tháng 6/2021. Các vật liệu xây dựng khác như gạch, đá cũng biến động tăng nhẹ so với năm trước.
Với xi măng, nhìn chung, các doanh nghiệp trong ngành xi măng có kết quả kinh doanh không mấy khả quan. Nguyên liệu sản xuất đầu vào tăng giá cùng với sự cạnh tranh trên thị trường đã khiến biên lợi nhuận của các doanh nghiệp trong ngành này suy giảm.
Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA), giá bán xi măng trong nước vẫn đang có sự chênh lệch lớn theo khu vực, dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Hiện nay, giá xi măng vẫn đang có sự chênh lệch theo khu vực, giá xi măng tại miền Nam đang ở mức tương đối cao.
Nguyên nhân giá thép trong nước quay đầu giảm mạnh sau thời gian tăng nóng được cho là giá phôi thép và nguyên vật liệu đầu vào có xu hướng đi xuống. Giá nguyên vật liệu trong sản xuất thép liên tục giảm từ cuối tháng 3 đến nay khiến thị trường thép chững lại. Ngoài ra, nhu cầu yếu hơn đáng kể có thể là do sự kết hợp của ba yếu tố là giá thép cao, cùng với sự gia tăng của các chi phí vật liệu xây dựng khác khiến hoạt động xây dựng bị đình trệ. Bên cạnh đó, lo ngại về việc giá thép tạo đỉnh khiến các nhà phân phối tạm dừng việc dự trữ hàng tồn kho. Các chính sách quản lý siết chặt hơn dòng vốn vào lĩnh vực bất động sản cũng ảnh hưởng đến nhu cầu thép và giá thép.
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát hôm nay, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.600 đồng/kg.
Với thương hiệu thép Việt Ý, 2 sản phẩm của hãng gồm thép cuộn CB240 bình ổn giá bán ở mức 16.160 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.560 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Đức với 2 sản phẩm của hãng gồm dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.060 đồng/kg; còn thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.510 đồng/kg.
Thép VAS (Việt Mỹ) không có biến động, hiện 2 sản phẩm của hãng gồm dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.160 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.260 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.160 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.360 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 tạm thời ở mức 16.140 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.440 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.650 đồng/kg.
Thép Việt Đức, dòng thép cuộn CB240 có giá 16.160 đồng/kg và thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 16.610 đồng/kg.
Thép VAS với 2 sản phẩm của hãng gồm dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.160 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.260 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.200 đồng/kg; còn thép thanh vằn D10 CB300 có giá bán 17.510 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 hiện ở mức 16.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.650 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 duy trì mức 17.000 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.560 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 15.960 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.060 đồng/kg.
Thép Tung Ho với dòng thép cuộn CB240 có mức giá 16.140 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 hiện có giá 16.290 đồng/kg.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 5 tháng năm 2022, cả nước nhập khẩu trên 5,25 triệu tấn sắt thép, trị giá gần 5,59 tỷ USD, giá trung bình đạt 1.063,8 USD/tấn, giảm 12% về lượng, nhưng tăng 20,4% kim ngạch và tăng 36,9% về giá so với cùng kỳ năm 2021.
Riêng tháng 5/2022, nhập khẩu 1,28 triệu tấn sắt thép, tương đương trên 1,4 tỷ USD, giá trung bình 1.097,5 USD/tấn, tăng 33% về lượng, tăng 35,4% về kim ngạch, nhưng tăng nhẹ 1,7% về giá so với tháng 4/2022; so với tháng 5/2021 thì tăng 34,5% về lượng, tăng 54,4% kim ngạch và tăng 14,8% về giá.
Sắt thép các loại nhập khẩu vào Việt Nam nhiều nhất có xuất xứ từ Trung Quốc, với 2,17 triệu tấn, tương đương 2,21 tỷ USD, giá 1.018,7 USD/tấn, giảm mạnh 30,6% về lượng, giảm 3,8% về kim ngạch, nhưng tăng mạnh 38,5% về giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 41,4% trong tổng lượng và chiếm 39,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép của cả nước.
VSA dự báo các doanh nghiệp thép trong nước sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách thức và những yếu tố bất ổn trong 6 tháng cuối năm 2022. Báo cáo của Bộ Công Thương mới đây cho biết dự kiến trong năm 2022, Việt Nam phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế khoảng 6-6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite khoảng 10.000 tấn… với dự báo giá quặng sắt, thép phế, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc… vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho rằng thị trường thép nửa cuối năm sẽ khó khăn hơn khi giá thép xây dựng trong nước sẽ tiếp tục giảm, thậm chí có thể kéo dài đến hết quý III, trong khi lợi nhuận mảng xuất khẩu thép không còn tốt như trước.
Trong 6 tháng đầu năm, thị trường thép trong nước đã chứng kiến nhiều biến động mạnh về giá. 3 tháng đầu năm, giá thép đã có 7 đợt tăng nóng và chạm mốc 19 - 19,5 triệu đồng/tấn.
Song đà tăng này không bền vững, đến đầu tháng 5, giá thép xây dựng lại lao dốc 8 đợt liên tiếp, xuống còn khoảng trên dưới 16 triệu đồng/tấn tùy loại và thương hiệu.
VSA cho rằng giá thép sẽ tiếp tục giảm thời gian tới, thậm chí có thể kéo dài đến hết quý III.