Năm 1968, thị trường vàng miếng London đóng cửa trong hai tuần bởi đã cạn nguồn dự trữ sau 5 tháng các ngân hàng trung ương châu Âu ồ ạt mua vàng do đồng USD giảm giá.
Cuộc khủng hoảng đánh dấu sự kết thúc đối với hệ thống Bretton Woods được xây dựng từ năm 1944, theo đó đồng USD được định giá theo vàng, trong khi các loại tiền tệ khác được xác định theo cơ chế ngang giá dựa trên USD.
Theo tờ The Economist, giờ đây các ngân hàng trung ương đang ráo riết mua vàng trở lại. Chỉ riêng trong quý III/2022, các ngân hàng này đã dự trữ 400 tấn vàng, nâng tổng lượng vàng dự trữ trong 9 tháng kể từ đầu năm đến nay lên 670 tấn, một kỷ lục kể từ sau sự sụp đổ của thị trường vàng miếng.
Theo báo cáo công bố ngày 1/11 của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC), các ngân hàng trung ương trên thế giới đã mua vào gần 400 tấn vàng trong quý III/2022, cao gấp 4 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này đưa tổng khối lượng vàng mà các ngân hàng trung ương mua trong năm nay, tính đến tháng 9/2022, lên mức 673 tấn, cao hơn so với bất cứ năm nào kể từ năm 1967.
WGC cho biết trong quý III, các ngân hàng trung ương mua kỷ lục 399 tấn vàng, trị giá khoảng 20 tỷ USD, góp phần làm tăng nhu cầu với kim loại quý này của toàn cầu.
Báo cáo của WGC ghi nhận trong quý vừa qua, nhu cầu vàng từ các công ty kinh doanh trang sức vàng và khách mua vàng miếng và xu vàng vẫn lớn. Tuy nhiên, sức mua vàng của các quỹ đầu tư hoán đổi danh mục (ETF) giảm.
Vàng thường được coi là tài sản an toàn trong những thời điểm kinh tế bất ổn, nhưng nhiều nhà đầu tư tài chính đã bán chứng chỉ quỹ ở các ETF bảo đảm bằng vàng khi lãi suất tăng.
WGC ghi nhận việc bán tháo vàng ở các ETF khiến giá vàng giảm 8% trong quý III, nhưng đợt giảm giá này đã giúp kích thích nhu cầu đối với trang sức vàng.
Tổng cộng nhu cầu vàng của thế giới lên tới 1.181 tấn trong quý III, tăng 28% so với mức 922 tấn vào cùng kỳ năm 2021.
Theo WGC, nhu cầu vàng của thế giới kể từ đầu năm đã vượt mức nhu cầu trước đại dịch.
Ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan, Qatar và Ấn Độ nằm trong số những ngân hàng đã mua với lượng lớn. Lượng mua vàng miếng và xu vàng cũng tăng vọt ở Thổ Nhĩ Kỳ, lên 46,8 tấn, tăng hơn 300% so với cùng kỳ năm ngoái, do người dân tăng mua vàng để đề phòng khi lạm phát đang ở mức hơn 83%. Vàng hiện chiếm 2/3 dự trữ của Uzbekistan, chỉ vài tháng sau khi nước này lên kế hoạch giảm lượng vàng dự trữ xuống một nửa. Kazakhstan cũng đang tăng gấp đôi lượng dự trữ.
Tình trạng trên một phần do vàng trở nên hấp dẫn trở lại trong thời kỳ bất ổn và lạm phát cao. Về lâu dài, vàng được coi là nguồn dự trữ giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ nền kinh tế nào trong khi miễn nhiễm với những bất ổn về chính trị và tài chính. Cũng có thể các ngân hàng trung ương cho rằng vàng hiện nay đang là món hời. Mặc dù giữ giá hơn so với hầu hết các loại kim loại khác, giá vàng đã giảm 3% trong năm nay và được kỳ vọng sẽ phục hồi.
Tuy nhiên, giống như trước đây, vàng miếng cũng là một cách tiêu USD, trừ việc lần này, không phải châu Âu mà các thị trường mới nổi mới là khách mua vàng. Các thị trường này cần USD để thanh toán hàng nhập khẩu và trả nợ nước ngoài. Nhưng dự trữ của họ chủ yếu bằng trái phiếu kho bạc thay vì tiền giấy.
Khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất khiến lợi suất tăng, làm giảm giá trị trái phiếu chính phủ. Các ngân hàng trung ương nhỏ coi đây là cách để đổi trái phiếu lấy kim loại quý thay vì đặt cược vào việc kiềm chế lạm phát của Fed.
Ngoài ra còn có động cơ khác. Dự trữ vàng là cách để tránh các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga. Phần lớn dự trữ của Nga đã bị đóng băng kể từ tháng Ba và các ngân hàng nước này hầu như đã bị ngắt kết nối với hệ thống thanh toán quốc tế bằng USD. Hầu như không có ngân hàng trung ương nào giữ đồng ruble làm dự trữ ngoại tệ.
Đối với những quốc gia có truyền thống làm ăn với Điện Kremlin - từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Turkmenistan- vàng là phương tiện trao đổi thay thế. Nhóm các thị trường mới nổi này nằm trong số đối tượng mua vàng nhiều nhất trong thời gian này. Đây không phải là việc phương Tây có thể can thiệp được.
Vàng của Nga bị cấm bán trên thị trường London, nhưng không ai có thể lấy được vàng dự trữ của Nga, phần lớn được khai thác từ các mỏ của nước này. Và ngân hàng trung ương Nga không còn báo cáo lượng vàng dự trữ, vì vậy không thể theo dõi được các giao dịch hoán đổi.
Vận chuyển vàng là một vấn đề hậu cần đau đầu, song khiến các giao dịch nằm trong tầm theo dõi của phương Tây, vốn rất hữu ích cho những nước quan hệ với cả hai bên như Qatar hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Hội đồng Vàng Thế giới cho biết những người mua không xác định chiếm phần lớn lượng mua trong năm nay.
Một điều an ủi đối với đồng USD là không có đồng tiền nào khác tăng giá. Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ bằng NDT trên toàn cầu đã chững lại trong năm nay. Đồng euro, yen Nhật và bảng Anh cũng đang giậm chân tại chỗ. Các ngân hàng trung ương có thể lên cơn sốt vàng, song chưa có sự thay đổi cơ chế trong tương lai gần.