Là tỉnh có diện tích rừng lớn, đứng thứ 18/63 tỉnh, thành phố trong nước, Quảng Ninh là một trong số những địa phương thực hiện rất hiệu quả chính sách phát triển lâm nghiệp bền vững. Thống kê cho thấy, tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh đạt trên 55%, với trên 370.000ha đất có rừng.
Theo thống kê của Sở NNPTNT tỉnh Quảng Ninh, trong 2 năm (2020-2021) toàn tỉnh đã trồng được 24.412ha rừng, tăng 1.412ha so với giai đoạn 2018-2019; gần 1,2 triệu cây phân tán, nâng tổng số diện tích đất có rừng lên 370.000ha.
Tổng mức đầu tư 725 tỷ đồng
Dự án hiện đại hóa ngành lâm nghiệp và tăng cường tính chống chịu vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt tại Quyết định số 1918/QĐ-UBND ngày 7/5/2019; với tổng mức đầu tư dự án hơn 725 tỷ đồng. Dự án được thực hiện trên 45 địa bàn xã, phường thuộc 7 huyện, thị xã, thành phố: Quảng Yên, Hạ Long, Vân Đồn, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà và Móng Cái. Quá trình thực hiện dự án được chia thành 4 hợp phần: Quản lý hiệu quả rừng ven biển, phục hồi và phát triển rừng ven biển, tạo lợi ích bền vững từ rừng ven biển và quản lý, giám sát và đánh giá dự án.
Mục tiêu tổng thể nhằm cải thiện quản lý rừng ven biển và rừng ngập mặn tại các xã vùng dự án tăng khả năng chống chịu trước bất lợi của các hiện tượng thời tiết và nước biển dâng.
Những năm qua, để nhân rộng những cánh rừng, nhất là rừng gỗ lớn, tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng, ban hành nhiều cơ chế, chính sách để khuyến khích phát triển lâm nghiệp, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc.
Đặc biệt, Quảng Ninh là 1 trong 8 địa phương trong nước được thụ hưởng từ Dự án "Hiện đại hóa ngành lâm nghiệp và tăng cường tính chống chịu ven biển - FMCR" do Bộ NNPTNT phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam thực hiện.
Đến nay tỉnh đang dẫn đầu trong việc bảo vệ, phục hồi rừng ngập mặn, góp phần bảo vệ tốt hệ thống cơ sở hạ tầng ven biển, tăng thu nhập bền vững cho người dân. Với diện tích rừng lớn, tỉnh Quảng Ninh rất có tiềm năng về thu dịch vụ môi trường rừng.
Hiện, Quảng Ninh thu được tiền dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) từ 4 loại hình là cơ sở sản xuất thủy điện; cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch; tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí và cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước từ nguồn nước phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
Theo đó, tổng diện tích có rừng được chi trả DVMTR cho các chủ rừng trên địa bàn tỉnh là gần 170.000ha, gồm 14 lưu vực từ lưu vực sông Trung Lương (thị xã Đông Triều) đến lưu vực sông Ka Long (TP.Móng Cái). Mức thu tiền DVMTR bình quân là trên 4,2 tỷ đồng/năm, trong đó năm 2021, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh được Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam điều phối 3,6 tỷ đồng để chi trả tiền DVMTR cho các đơn vị có mức chi trả tiền DVMTR bình quân 1ha thấp nhất trên địa bàn tỉnh.
Từ nguồn thu này, Quảng Ninh thực hiện chi trả cho hơn 160.000ha diện tích có rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Mức thu tiền DVMTR từ năm 2015 đến tháng 10/2022 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là gần 33 tỷ đồng, bình quân gần 4,2 tỷ đồng/năm, thực hiện chi trả cho hơn 160.00ha diện tích có rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng mỗi năm. Để tạo ra các cơ chế khuyến khích hộ gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp, chính quyền địa phương và người dân tham gia quản lý và bảo vệ bền vững nguồn tài nguyên rừng, đặc biệt là nguồn tài nguyên rừng ngập mặn thì việc xây dựng thí điểm mô hình về chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với rừng ngập mặn là rất cần thiết.
Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh đã triển khai thực hiện chi trả tiền DVMTR tới các chủ rừng là tổ chức và các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, UBND xã nơi có cung ứng DVMTR theo quy định thông qua hình thức chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng.
Năm 2022, số hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được hưởng lợi tiền DVMTR là trên 13.000 hộ và số chủ rừng nhóm II là 25 đơn vị.
Theo TS Trần Thị Thu Hà (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam), trong khuôn khổ Dự án Hiện đại hóa ngành lâm nghiệp, kết quả nghiên cứu ban đầu trong việc xây dựng mô hình thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản tại Quảng Ninh cho thấy đa số các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản đều có nhận thức tốt về vai trò của rừng ngập mặn đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản và có hiểu biết nhất định về cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Trong phạm vi khảo sát, đã có 76,2% số hộ gia đình, doanh nghiệp sẵn sàng chi trả với mức phổ biến từ 30 - 40% thuế đất nuôi trồng thủy sản, tương đương khoảng 900.000 - 1.200.000 đồng/ha đất được giao/ năm.
Còn theo TS Phạm Thu Thủy (Tổ chức CIFOR), rừng ngập mặn có thể cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ môi trường, như dịch vụ hấp thụ, lưu trữ, bể chứa các bon; bồi lắng và giảm bùn thải; chống xói lở bờ biển; chắn sóng; cung ứng nước sạch, lọc kim loại nặng, lọc ô nhiễm; cung ứng bãi đẻ; vẻ đẹp cảnh quan và nguyên liệu thực phẩm.
Hiện nay, từ việc tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, khai thác, nuôi trồng thủy sản, hoạt động du lịch và công nghiệp ở các vùng ven biển phát triển, đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Mặc dù diện tích rừng ven biển chỉ chiếm khoảng 3% tổng diện tích rừng quốc gia, nhưng rừng ven biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn chặn sóng, gió, hạn chế xói lở bờ biển, bảo vệ đê biển, bảo vệ sinh kế của người dân.
Bà Thủy cũng khuyến nghị một số vấn đề cần xem xét trong quá trình xây dựng, sửa đổi chính sách liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường rừng trong hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản như việc mở rộng đối tượng chi trả và hướng tới nhiều nhóm người mua, có cơ chế khuyến khích bảo tồn rừng ngập mặn hiện có. Tuy nhiên, cũng cần tính đến các yếu tố liên quan đến định lượng dịch vụ hệ sinh thái, tính bền vững của các dịch vụ hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng như bảo đảm điều kiện và tính công bằng trong chia sẻ lợi ích.