Vài năm trở lại đây, cá bông lau trong tự nhiên ngày càng cạn kiệt, nhiều người phải “gác lưới” bỏ nghề. Cá bông lau có thể chế biến thành nhiều món đặc sản như kho tiêu, kho thơm, canh cá, cháo cá, nấu lẩu....
Môi trường sinh sống của chúng là vùng nước lợ và nước mặn. Với tập tính di trú, chúng sẽ ở vùng nước ven biển một thời gian, đến mùa sinh sản chúng sẽ di chuyển vào các sông thuộc lưu vực sông Mê Kông để sinh sản.
Thức ăn của loài cá này thường là các sinh vật nhuyễn thể, động vật giáp xác như tôm, tép, các loại cá nhỏ, bùn bã hữu cơ cùng cá sinh vật thủy sinh.
Cá bông lau có vẻ ngoài khá giống với cá basa và cá hú nên rất dễ bị nhầm lẫn. Cá bông lau có kích thước tối đa khá lớn với chiều dài khoảng 120cm và nặng khoảng 14kg. Thịt cá bông lau chắc và ngọt, ít xương nên khi chế biến thành các món canh hay món lẩu đều rất ngon.
Nó có da trắng mịn, nổi bông phấn, khi gặp ánh nắng mặt trời màu sắc ánh lên như cái bông lau sậy.
Cá bông lau thuộc loài di trú và là đặc sản của dòng sông Mekong, hiện được xếp vào loại quý hiếm. Giá cá bông lau nguyên con 1 - 3kg có giá khoảng 300.000 - 400.000/kg
Trên thị trường, cá bông lau được bán với giá từ 300.000-400.000 đồng/kg. Mỗi con cá nặng 3-5kg có giá lên tới 1.5 triệu đồng.
Gần đây, một số người dân sử dụng con giống bắt từ tự nhiên thuần dưỡng và nuôi trong ao đất. Loại cá này vốn rất nhát, mỗi khi ao nuôi có động tĩnh gì là chúng bỏ ăn vài ngày, thậm chí có khi đến nửa tháng
Ông Nguyễn Văn Kiệt (ở Sóc Trăng) nuôi 13.000 con giống nuôi trong 7.000m2 ao đất.
Sau 1 năm, ông Kiệt thu hoạch được khoảng 10 tấn cá, bán giá 115.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông lời hàng trăm triệu đồng.
Cá bông lau có thể chế biến thành nhiều món đặc sản như kho tiêu, kho thơm, canh cá, cháo cá, nấu lẩu....
Đặc biệt, nhiều người thường hay nhầm lẫn cá bông lau và cá hú, thế nhưng nếu tinh ý một chút thì chúng ta sẽ nhận ra sự khác nhau của hai loài cá này. Cụ thể như sau:
Cá bông lau có lưng và đầu có màu xanh lá cây, bụng màu trắng. Đặc biệt, vây bụng, vây đuôi, vây lưng, vây ngực màu trắng nhưng ở phía ngoài cùng có màu vàng. Còn cá hú có mặt lưng và phần đầu màu xám đen, bụng mang màu trắng pha chút xám đục.
Cá bông lau có hàm răng sắc nhọn, mọc lởm chởm. Miệng cá có dạng hình nón và khá rộng và tròn khi trưởng thành. Cá bông lau có đôi râu dài được bố trí ở gần mép của cá. Cá hú có răng hàm nhỏ và mịn. Mõm nhọn, miệng dưới hơi rộng, hình vòng cung và hàm trên nhô ra. Cá hú có râu mép kéo dài qua vây ngực, đôi râu hàm kéo dài đến gốc vây ngực.
Cá bông lau là loài cá sống ngoài tự nhiên, nên thịt rất chắc, ngọt và béo. Cá hú thường được nuôi, nên phần thịt cá sẽ có nhiều mỡ hơn và béo hơn.