d2.960 mã số vùng trồng xuất khẩu sang Trung Quốc
Thông tin trên được ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (BVTV), Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết tại hội nghị "Tăng cường quản lý nhà nước về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói" được Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức tại tỉnh Lạng Sơn, ngày 24/8.
Theo ông Đạt, tính đến tháng 7/2023 cả nước có 6.883 mã số vùng trồng và 1.588 mã số CSĐG nông sản được cấp. Trong đó, xoài 1832, thanh long 807, nhãn 742, lúa 816, sầu riêng 422 là các sản phẩm có nhiều mã số vùng trồng nhất. ĐBSCL là vùng có được cấp nhiều mã số CSĐG nhất với 626 mã số (chiếm 39,4%).
Những thị trường có số lượng mã số vùng trồng nhiều nhất, lần lượt Trung Quốc 2.960, Mỹ 955, Newzealand 525 và Úc 478.
"Nếu tình trạng vi phạm mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với các ngành hàng xuất khẩu, làm mất uy tín của hàng nông sản Việt Nam, thậm chí có thể đánh mất thị trường đã phải mất rất nhiều công sức, thời gian và nguồn lực để mở cửa".
Thứ trưởng Hoàng Trung
Ông Đạt cho hay, hiện xuất khẩu nông sản tăng trưởng tốt nhưng các yêu cầu về kiểm dịch, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc của các nước nhập khẩu ngày càng cao và các nước có chương trình giám sát khác nhau.
Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản giám sát hàng năm; Úc và New Zealand là 2 năm/lần; EU là 3 năm/lần. Đối với thị trường Trung Quốc có những đặc thù riêng, mỗi năm nước này sẽ cử chuyên gia phối hợp với Cục BVTV thực hiện việc giám sát các vùng trồng, CSĐG đã được cấp mã số.
"Qua các lần giám sát, các chuyên gia nước nhập khẩu đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong thời gian qua, tuy nhiên cũng chỉ ra một số tồn tại cần phải khắc phục", ông Đạt cho biết.
Theo ông Đạt, một trong những tồn tại hiện nay nằm ở việc soát xét hồ sơ chưa đảm bảo; có hiện tượng sao chép hồ sơ giữa các vùng trồng, CSĐG; công tác kiểm tra đánh giá còn lơ là, chủ quan, chất lượng đánh giá vùng trồng, CSĐG còn thấp.
Đối với các cơ sở vùng trồng chưa quản lý tốt sinh vật gây hại, gây áp lực cho CSĐG; hồ sơ, sổ sách ghi chép không đầy đủ, không cập nhật; thông tin ghi chép hồ sơ và khi phỏng vấn kiểm tra của GACC không nhất quán; vệ sinh vườn trồng chưa tốt, nhiều tàn dư thực vật; không xử lý quả rụng tại vườn trồng...
Để quản lý, giám sắt chặt chẽ các cơ sở được cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói theo lãnh đạo Cục BVTV cần cải tiến quy trình, đào tạo nhân lực, nâng cao năng lực quản lý và kỹ thuật.
Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất từ vùng trồng đến xuất khẩu để đảm bảo chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và bảo vệ quyền lợi các bên; chủ động duy trì và cải tiến điều kiện sản xuất sau khi được cấp mã số.
Bám sát yêu cầu kỹ thuật của nước nhập khẩu, duy trì thường xuyên việc ghi chép hồ sơ giấy tờ và phòng trừ sinh vật gây hại để đảm bảo mức độ nhiễm thấp; CSĐG trước khi xuất kho phải đảm bảo không nhiễm sinh vật gây hại.
Kiểm soát chất lượng ngay tại gốc
Ông Hoàng Khánh Duy - Phó Trưởng Ban quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng, Lạng Sơn cho biết, 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu mặt hàng nông sản hoa quả qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn đạt khoảng 1,6 triệu tấn, trị giá khoảng 1.200 triệu USD; một số mặt hàng trái cây chủ lực như: Thanh long đạt 390.000 tấn, trị giá 110 triệu USD; sầu riêng đạt 215.000 tấn, trị giá 650 triệu USD…
Theo ông Duy, trong những năm qua, Trung Quốc ngày càng nâng cao yêu cầu đối với chất lượng các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động kiểm soát sinh vật gây hại trên các mặt hàng này.
Trong quá trình kiểm hoá, khi phát hiện một trường hợp có sinh vật gây hại trên mặt hàng, phía bạn xử lý rất nặng, yêu cầu toàn bộ lô hàng phải quay đầu về Việt Nam, đôi khi còn dừng nhập khẩu mặt hàng này trong một thời gian dài, như tiền lệ đã có mặt hàng quả ớt của Việt Nam.
Nhấn mạnh vai trò của việc cấp, quản lý và giám sát mã số vùng trồng và CSĐG, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Hoàng Trung cho rằng, khi Việt Nam tham gia vào các FTA đòi hỏi người dân và doanh nghiệp tự nâng cao năng lực, kỹ năng quản lý để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cao đối với chất lượng, quy cách đóng gói các sản phẩm nông lâm thủy sản. Do đó, việc kiểm soát chất lượng ngay tại gốc và có một hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật đóng vai trò hết sức quan trọng.
Thứ trưởng Hoàng Trung cũng cho biết, các nước nhập khẩu cũng đang nâng cao rào cản kỹ thuật; các quy định về kiểm dịch thực vật nhập khẩu và an toàn thực phẩm ngày càng trở nên khắt khe.
Các quốc gia có lợi thế về xuất khẩu nông sản như Thái Lan và một số quốc gia Nam Mỹ… cũng đang tích cực thay đổi, cải tiến hệ thống sản xuất nông nghiệp để mở rộng thị phần sang các thị trường tiềm năng. Những điều này đang thúc ép chúng ta phải thay đổi, nếu không sẽ tụt hậu và mất thị trường.
"Để xuất khẩu nông sản thực sự bền vững, đảm bảo ổn định chất lượng nông sản thì việc thiết lập, cấp và quản lý mã số vùng trồng, an toàn thực phẩm là điều kiện nền tảng, tiên quyết. Đây cũng là quy định bắt buộc của nhiều nước nhập khẩu và hoàn toàn phù hợp theo các thông lệ quốc tế" - ông Trung nhấn mạnh.