Trọng tâm của cuộc xung đột là cuộc tranh giành quyền lực giữa các trung tâm quyền lực của Sudan, những bên đang tìm cách duy trì sự thống trị và tiếp cận các nguồn lực kinh tế quan trọng trong một tương lai Sudan do dân thường kiểm soát.
Andrei Shelkovnikov, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Phi, Đại học HSE đã có bài phân tích đăng trên tờ RT.
Kể từ khi giành được độc lập vào năm 1956, Sudan vẫn là một quốc gia rất bất ổn khi quân đội đóng vai trò quan trọng về chính trị. Điều này được phản ánh qua việc nước này đã phải đối mặt với 35 cuộc đảo chính quân sự, trong đó có 6 cuộc đảo chính thành công. Hai cuộc đảo chính gần đây nhất vào năm 2019 và 2021 đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình hiện tại.
Sudan nằm dưới sự cai trị của Omar al-Bashir từ năm 1989. Các cuộc xung đột kéo dài với quân nổi dậy dưới thời cai trị của al-Bashir đã tạo điều kiện cho việc thành lập các nhóm vũ trang mới tồn tại cùng với Lực lượng vũ trang Sudan. Các nhóm này được tạo thành từ lực lượng dân quân có khả năng chiến đấu chống lại quân nổi dậy để đổi lấy quyền kiểm soát các hoạt động tài chính trong các khu vực ảnh hưởng. Do đó, một mặt của cuộc xung đột ngày nay ở Sudan, RSF phát triển từ lực lượng dân quân bộ lạc Ả Rập ở Darfur và được chính thức công nhận vào năm 2013, báo cáo cho Cơ quan An ninh và Tình báo Quốc gia – trở thành nhóm lớn nhất và quan trọng nhất trong số các nhóm như vậy. Các nhóm này cũng được chế độ chính trị của al-Bashir sử dụng để cân bằng quân đội Sudan và làm phức tạp thêm khả năng xảy ra một cuộc đảo chính quân sự.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính Sudan năm 2018 trở nên trầm trọng hơn, do tình trạng thiếu tiền tệ ngày càng tăng, đã dẫn đến việc chính phủ cắt giảm chi tiêu, khiến giá lương thực tăng đáng kể và gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị. Tình trạng này được thúc đẩy bởi mong muốn của người dân Sudan về một sự thay đổi trong giới lãnh đạo chính trị, mệt mỏi với sự cai trị 30 năm của al-Bashir, người đang chuẩn bị tái tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Tất cả điều này đã gây ra các cuộc biểu tình quy mô lớn trong nước, bắt đầu vào tháng 12/2018 và kéo dài hơn 4 tháng.
Trong bối cảnh đó, quân đội, trước đây trung thành với tổng thống, trên thực tế đã đứng về phía những người biểu tình và thực hiện một cuộc đảo chính quân sự ở Sudan vào tháng 4/2019, loại bỏ nhà lãnh đạo lâu năm khỏi quyền lực và thành lập Hội đồng quân sự chuyển tiếp và Tướng Abdel Fattah al -Burhan là người đứng đầu. Do đó, các nhà lãnh đạo quân sự đã ngăn chặn một cuộc cách mạng dân sự trong nước bằng cách phần lớn giữ quyền lực cho những nhân vật quân sự thân cận với al-Bashir và bắt đầu trì hoãn quá trình chuyển đổi, khiến quan hệ với các lực lượng dân sự trở nên căng thẳng.
Vào tháng 8/2019, với sự hòa giải của Ethiopia, Liên minh châu Phi và IGAD, Sudan đã thành lập một cơ quan quân sự-dân sự tối cao, Hội đồng chủ quyền chuyển tiếp của Sudan, do al-Burhan đứng đầu và phó giám đốc RSF Hemedti của ông, bổ nhiệm một thủ tướng dân sự là Abdalla Hamdok. Trong quá trình chuyển tiếp vào tháng 10/2020, chính quyền chuyển tiếp đã ký kết một thỏa thuận với các nhóm phiến quân Darfur ở Juba, thủ đô của Nam Sudan, nơi được cho là sẽ chấm dứt xung đột ở Darfur. Hơn nữa, Sudan đã bị loại khỏi danh sách Nhà nước tài trợ khủng bố của Mỹ điều này đáng lẽ phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ở nước này.
Mặc dù vậy, sự thống nhất và ổn định trong tiến trình chính trị đã không đạt được. Tình hình trở nên phức tạp do những rạn nứt trong giới lãnh đạo dân sự và quân sự, cũng như những nỗ lực của chính quyền dân sự nhằm tiến hành các cuộc điều tra chống tham nhũng chống lại các nhà lãnh đạo quân sự của đất nước.
Tình trạng này dẫn đến một cuộc đảo chính quân sự khác vào tháng 10/2021, khi chính quyền quân sự Sudan lợi dụng sự chia rẽ trong liên minh dân sự để loại bỏ Thủ tướng Abdalla Hamdok và các thành viên khác trong chính phủ. Tuy nhiên, những phản đối mới và phản ứng tiêu cực từ cộng đồng quốc tế, bao gồm Liên hợp quốc, Liên minh châu Phi, cũng như UAE và Ả Rập Saudi vốn ủng hộ quân sự trước đây, đã buộc quân đội phải khôi phục chính phủ dân sự, nhưng tiến trình chính trị vẫn phức tạp.
Vào tháng 12/2022, các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự của Sudan đã ký một thỏa thuận sơ bộ nhằm chấm dứt sự cai trị của quân đội và chuyển sang chế độ cai trị dân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong các lực lượng vũ trang và trực tiếp giữa Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền Chuyển tiếp của Sudan, al-Burhan và cấp phó của ông là Hemedti giờ đây đã lộ rõ.
Điểm tranh chấp chính về các chi tiết cụ thể của quá trình chuyển đổi là vấn đề RSF phù hợp với hệ thống phân cấp của Lực lượng vũ trang Sudan ở đâu và thời gian của quá trình chuyển đổi, làm nổi bật một cách hiệu quả vấn đề chia sẻ quyền lực giữa các nhóm vũ trang. Người đứng đầu SAF, al-Burhan, nhấn mạnh sự cần thiết phải hợp nhất RSF vào SAF trong vòng hai năm, nhấn mạnh sự cần thiết của họ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước sự lãnh đạo của SAF.
Mặt khác, Hemedti ủng hộ việc đưa RSF trực tiếp dưới sự kiểm soát của Hội đồng Chủ quyền (lực lượng dân sự) và kéo dài quá trình chuyển đổi sang thời hạn 10 năm. Tranh chấp giữa các tướng lĩnh, cùng với lo ngại về việc chuyển đổi sang chế độ dân sự, cũng dựa trên những cân nhắc về tài chính.
Người đứng đầu RSF laf Hemedti và là một trong những chính trị gia có ảnh hưởng nhất trong nước, đã tập trung tới 100.000 binh sĩ được huấn luyện dưới quyền chỉ huy của ông, những người đã thực hiện một số chiến dịch quân sự cả ở Sudan, Yemen và Libya, nơi họ được tài trợ bởi chính phủ Sudan. UAE và Ả Rập Saudi. Ngoài ra, RSF còn nắm giữ một nguồn ngoại hối quan trọng – các mỏ vàng ở Darfur – kiểm soát biên giới của Sudan ở phía tây với Chad và Libya, đồng thời tham gia buôn lậu trong khu vực.
Lực lượng vũ trang Sudan do al-Burhan lãnh đạo cũng dựa vào nền tảng kinh tế vững mạnh thông qua việc thành lập các công ty lớn do quân đội trực tiếp điều hành và không chịu trách nhiệm trước các cơ cấu dân sự. Vị trí này cho phép họ tập trung nguồn lực đáng kể vào tay, chiếm tới 80% nền kinh tế Sudan và có đại diện trong tất cả các lĩnh vực, bao gồm nông nghiệp, hậu cần, ngân hàng, khai thác mỏ và xây dựng.
Những lợi ích kinh tế rộng lớn này của các nhóm vũ trang không chỉ giải thích cho sự kéo dài của quá trình chuyển đổi mà còn giải thích cho việc các tướng lĩnh không muốn rời bỏ vị trí của mình trong chính phủ chuyển tiếp, mất quyền kiểm soát đối với đặc lợi tài chính. Ngoài ra, sự cạnh tranh giữa hai bên còn bị ảnh hưởng bởi sự đối lập lịch sử giữa các nhóm Ả Rập nghèo ở Tây Sudan (RSF) và giới tinh hoa Ả Rập sông Nile (đại diện cho SAF). Tất cả những điều này khiến cho sự khác biệt giữa họ không thể giải quyết được, gây ra xung đột vũ trang vào giữa tháng 4/2023.
Cuộc khủng hoảng Sudan cũng phức tạp do sự cân bằng quyền lực phức tạp trong khu vực bị ảnh hưởng bởi tình hình ở Sudan. Theo truyền thống, các chế độ quân chủ vùng Vịnh có đòn bẩy quan trọng nhất. Các nhà tài trợ chính cho cuộc đảo chính quân sự năm 2019 và các nhà đầu tư tích cực vào nước này, UAE và Ả Rập Saudi, đóng một vai trò quan trọng trong cuộc khủng hoảng hiện nay.
Trong khi Saudi đóng vai trò là trung gian hòa giải quốc tế, thì UAE có nhiều khả năng ủng hộ RSF hơn, với các nhà lãnh đạo mà Abu Dhabi đã xây dựng mối quan hệ kinh tế sâu sắc. Sự hỗ trợ của UAE dành cho RSF là điều hiển nhiên, cả trong các chuyến hàng vũ khí được báo cáo qua Chad và Libya, cũng như thông qua các dòng tài chính, vì UAE vẫn là điểm đến giao dịch vàng quan trọng nhất của RSF.
Mặc dù mức độ quan hệ với al-Burhan là tốt trước cuộc xung đột hiện tại, nhưng có khả năng là trong môi trường hiện tại, lãnh đạo UAE đã nhìn thấy cơ hội để tối đa hóa lợi ích của họ trong trường hợp Hemedti củng cố vị thế của mình ở Sudan sau xung đột. Sự lựa chọn về phe của UAE cũng được xác nhận bởi cuộc khủng hoảng ngoại giao với Bộ Ngoại giao Sudan, do Lực lượng vũ trang Sudan kiểm soát, yêu cầu 15 nhà ngoại giao của UAE rời khỏi Sudan vào tháng 12/ 2023.
Ả Rập Saudi trong nỗ lực duy trì an ninh ở khu vực Biển Đỏ và bảo vệ các khoản đầu tư của mình ở Sudan, đã trở thành một trong những nhà hòa giải quan trọng nhất giữa các bên trong cuộc xung đột bằng cách cung cấp một nền tảng cho các cuộc đàm phán ở Jeddah. Đáng chú ý là các cuộc đàm phán ở Jeddah cũng được tổ chức với sự hỗ trợ của Mỹ, quốc gia có ảnh hưởng hạn chế ở Sudan, bằng chứng là cuộc khủng hoảng kéo dài và lợi ích của nước này dựa trên việc hỗ trợ chuyển đổi sang chế độ dân sự, điều mà ngày nay khó có thể thực hiện được. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng ở Sudan không phải là ưu tiên ngoại giao của Mỹ.
Nhà lãnh đạo khu vực Ả Rập khác là Ai Cập, quan tâm đến việc ổn định biên giới phía nam của mình, ngược lại lại tích cực ủng hộ Lực lượng vũ trang Sudan, do cả mối quan hệ cá nhân chặt chẽ hơn giữa Tổng thống Ai Cập Abdel Fattah al-Sisi và Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền Chuyển tiếp của Sudan al-Burhan và sự giống nhau về chế độ chính trị do quân đội kiểm soát.
Ngoài ra, Ai Cập còn quan tâm đến việc tìm kiếm sự ủng hộ của Sudan cho lập trường của mình trong tranh chấp Đập Nile với Ethiopia, cũng như lo ngại về một cuộc khủng hoảng tị nạn ngày càng gia tăng ở biên giới phía nam của nước này. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi các phi công Ai Cập đã hỗ trợ Lực lượng vũ trang Sudan kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột và bản thân Ai Cập cũng liên kết về mặt chính trị với SAF.
Liên minh châu Phi và Cơ quan phát triển liên chính phủ (IGAD) đã tham gia vào các nỗ lực trong quá trình đàm phán và đưa ra các sáng kiến của riêng họ. Trung Quốc cũng không đứng về bên nào nhưng quan tâm đến sự ổn định ở Sudan, đã đầu tư lớn vào nền kinh tế nước này và ký thỏa thuận với Khartoum để tham gia Sáng kiến Vành đai và Con đường. Nga, quốc gia có truyền thống quan hệ hữu nghị dựa trên thương mại nông nghiệp và vũ khí cùng có lợi, cũng ủng hộ giải pháp sớm cho cuộc khủng hoảng.
Cuộc giao tranh nổ ra ở thủ đô Khartoum và sau đó lan sang các khu vực khác của Sudan đã không ngay lập tức mang lại lợi thế bền vững cho một trong các bên tham chiến. Việc giải quyết xung đột giữa các nhóm quân sự rất phức tạp bởi một bế tắc lớn. Các lực lượng đối lập không có khả năng tiến hành một cuộc tấn công quyết định và xoay chuyển cuộc xung đột theo hướng có lợi cho họ. Ngoài ra, các nhóm nổi dậy ở Darfur dần dần tham gia vào các đảng phái. Tình hình này gây khó khăn cho việc tìm kiếm một thỏa hiệp để đạt được hòa bình, vì cả hai bên đều cảm thấy rằng họ có thể giành được lợi thế nếu giao tranh tiếp tục.
Do đó, nhiều nỗ lực nhằm đạt được thỏa thuận ngừng bắn do Ả Rập Saudi và Mỹ làm trung gian ở Jeddah, ngay cả những nỗ lực được cả hai bên tham chiến đồng ý, đã thất bại.
Lãnh thổ Sudan dần dần bị chia cắt thành hai khu vực do các bên tham chiến kiểm soát. Ban lãnh đạo SAF đã triển khai ở phía đông thành phố Port Sudan và giữ quyền kiểm soát các tỉnh miền trung và miền đông đất nước, sông Nile phía bắc Khartoum và các cảng Biển Đỏ quan trọng nhất. Mặt khác, RSF, với vùng ảnh hưởng quan trọng ở phía tây Sudan, dần dần củng cố quyền kiểm soát đối với hầu hết Darfur, một phần lớn bang Khartoum và các vùng lãnh thổ ở Bắc và Tây Kordofan.
Trong bối cảnh các cuộc đàm phán được nối lại ở Jeddah vào tháng 10, RSF đã chiếm được thị trấn Nyala, một trung tâm hậu cần lớn ở Darfur, nơi bắt đầu nghiêng cán cân theo hướng có lợi cho RSF. Tuy nhiên, nó một lần nữa dẫn đến việc trì hoãn các cuộc đàm phán hòa bình do sự tăng cường của một trong các bên.
Trong tháng 11 và tháng 12, tình hình tiếp tục diễn biến, dẫn đến việc RSF nắm quyền kiểm soát Wad Medani, thủ phủ của vùng Gezira và là một trung tâm hậu cần và lương thực quan trọng, điều này có thể dẫn đến sự gián đoạn nguồn cung cấp cho SAF. Việc RSF nhanh chóng chiếm được thị trấn cũng cho thấy sự thiếu đoàn kết và khả năng hạn chế của SAF trong việc tiến hành một chiến dịch quân sự hiệu quả trong môi trường hiện tại.
Các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Hemedti và al-Burhan dự kiến diễn ra tại Djibouti vào cuối tháng 12, do IGAD làm trung gian, nhưng một ngày trước khi cuộc họp đã thống nhất diễn ra, người đứng đầu RSF đã từ chối tham dự, đi công du các nước trong khu vực để củng cố vị thế quốc tế của mình.
Trong chuyến công du này, Hemedti đã đến thăm Uganda, Ethiopia, Djibouti, Kenya và Nam Phi, đồng thời tổ chức các cuộc gặp với tổng thống và bộ trưởng ngoại giao của các quốc gia này cũng như các nhà lãnh đạo dân sự Sudan. Bằng cách này, Hemedti đã bổ sung thêm một khía cạnh chính trị và ngoại giao mới cho cuộc xung đột, đồng thời bày tỏ sự sẵn sàng cho một giải pháp hòa bình với các điều kiện có lợi hơn cho RSF. Burhan đáp lại bằng cách tuyên bố đình chỉ IGAD, cho rằng tổ chức này vi phạm chủ quyền của Sudan.
Tóm lại, hệ thống quản lý lấy quân sự làm trung tâm của Sudan khó có thể thay đổi sang lãnh đạo dân sự trong tương lai gần. Đúng hơn, lực lượng dân sự sẽ tiếp tục phụ thuộc vào các nhóm vũ trang. Bản thân cuộc xung đột ở Sudan hiện đang trải qua một giai đoạn quan trọng. Sức mạnh ngày càng tăng của RSF khiến vị thế đàm phán của tổ chức này trở nên thuận lợi hơn nhiều. Tuy nhiên, việc củng cố những lợi ích này nhờ các mối quan hệ quốc tế của lãnh đạo RSF đã ngăn cản SAF đàm phán.
Đồng thời, việc các bên không thể đạt được thỏa thuận sẽ đẩy Sudan đến gần hơn với nguy cơ trở thành một quốc gia thất bại, điều này sẽ làm gia tăng tình trạng bất ổn không chỉ ở chính Sudan mà còn ở các quốc gia và khu vực lân cận, bao gồm vùng Sừng châu Phi, khu vực Sahel và Ai Cập. Căng thẳng gia tăng và quân đội suy yếu có thể dẫn đến việc phổ biến vũ khí cho các nhóm sẽ trở thành thách thức an ninh lớn hơn ở một khu vực vốn đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể.
Tình hình ở Sudan vẫn còn gay gắt, với cuộc khủng hoảng nhân đạo ngày càng gia tăng đã ảnh hưởng đến phần lớn đất nước trong cuộc xung đột. Ngoài râ, những hành động thiếu kiểm soát của quân đội hai bên, liên quan đến cướp bóc và bạo lực chống lại dân thường cũng góp phần gaay ra khủng hoảng nhân đạo. Tính đến tháng 1/2024, số dân thường thiệt mạng đã vượt quá 10.000 người và hơn 7,2 triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa để chạy trốn chiến sự, trong đó hơn 1,5 triệu người cũng đã rời bỏ Sudan. Những số liệu này cho thấy Sudan hiện là quốc gia có số lượng người phải di dời lớn nhất thế giới và là một trong những quốc gia có cuộc khủng hoảng nhân đạo tồi tệ nhất.