Đối với lĩnh vực lâm nghiệp, cơ hội tham gia thị trường tín chỉ carbon là rất lớn, sẽ giúp có thêm nguồn lực cho công tác bảo vệ, phát triển rừng. Theo ông Trần Quang Bảo- Cục trưởng Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT), hiện nay việc phát triển thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam là phù hợp. Điều này sẽ giúp Việt Nam tiến gần hơn và bắt kịp với xu hướng của thế giới trong việc tham gia mua bán, trao đổi, chuyển nhượng lượng khí thải hay thương mại tín chỉ giảm phát thải.
Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT), diện tích rừng hiện có của cả nước là 14,79 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng hiện nay đạt 42,02%. Theo báo cáo của Tổ chức Nông - Lương Liên Hợp quốc (FAO) về đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu, trong khi diện tích rừng trên thế giới suy giảm mạnh, diện tích rừng trồng thấp, thì Việt Nam là một trong 10 quốc gia trên thế giới có diện tích rừng tăng cao nhất, có diện tích rừng trồng lớn nhất thế giới.
Trong giai đoạn tới, theo định hướng của Bộ NNPTNT, ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục tham mưu, kiến nghị các giải pháp để xã hội hóa thu hút các nguồn lực tham gia trồng rừng bởi dư địa phát triển vẫn còn rất lớn. Đây chính là tiềm năng rất to lớn để Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ carbon.
Tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một lượng khí CO2 hoặc một lượng khí nhà kính khác quy đổi sang CO2 tương đương. Một tín chỉ tương đương với 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn CO2 quy đổi tương đương.
Theo Bộ NNPTNT, mua bán tín chỉ giảm phát thải trên thị trường là phương pháp tiên tiến được ngày càng nhiều quốc gia triển khai, đã tạo ra thị trường carbon hay còn gọi là thị trường trao đổi tín chỉ giảm phát thải khí nhà kính.
Hiện nay, lâm nghiệp là lĩnh vực đang phát thải âm và được các chuyên gia đánh giá là có nhiều tiềm năng để thực hiện trao đổi, chuyển nhượng hay thương mại hóa tín chỉ carbon rừng với các đối tác trong và ngoài nước. Chính vì vậy, việc hình thành thị trường tín chỉ carbon có nhiều tác động tích cực đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Khi tín chỉ carbon rừng được giao dịch trên thị trường carbon thì các chủ rừng, những người đang trực tiếp giữ rừng sẽ có thêm nguồn thu nhập từ công sức bảo vệ rừng của mình, góp phần cải thiện đời sống, tạo thêm động lực để họ tiếp tục giữ rừng, bảo vệ rừng ngày càng tốt hơn, tích cực hơn. Bên cạnh đó, họ còn được nâng cao nhận thức về giá trị của rừng và ngày càng có trách nhiệm hơn với công tác bảo vệ rừng, dần dần hình thành tư duy sản xuất, quản trị rừng chuyên nghiệp hơn, từ bỏ dần thói quen xâm hại rừng.
Bên cạnh đó, thương mại tín chỉ carbon rừng trên thị trường carbon còn là cơ hội tốt để có thêm nguồn lực góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh gắn với phát triển bền vững và mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết "đưa mức phải thải ròng về 0 vào năm 2050'' của Việt Nam tại COP26.
Theo ông Trần Quang Bảo, thời gian qua, theo Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) đã ký giữa Việt Nam (Bộ NNPTNT) và WB đối với 6 tỉnh Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024, Việt Nam chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới với tổng giá trị là 51,5 triệu USD, tương ứng 1.200 tỷ đồng.
Đến nay, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam đã tiếp nhận số tiền từ WB và đã giải ngân toàn bộ để các tỉnh khẩn trương lập kế hoạch chi trả cho các chủ rừng thuộc sáu tỉnh Bắc Trung Bộ. Trong số 6 tỉnh này, Nghệ An là tỉnh được giải ngân hơn 282 tỷ đồng, tiếp đến là Quảng Bình với hơn 235 tỷ đồng, Thanh Hóa 162 tỷ đồng, Hà Tĩnh 122 tỷ đồng, Thừa Thiên Huế 107 tỷ đồng và Quảng Trị hơn 51 tỷ đồng.
"Điều quan trọng hơn, việc chuyển nhượng tín chỉ carbon của Việt Nam được WB đánh giá rất cao. Từ câu chuyện của Việt Nam, WB mong muốn chia sẻ, lan tỏa đến các nước trên thế giới", ông Bảo khẳng định.
Để góp phần thúc đẩy việc sớm hình thành thị trường các-bon cũng như việc trao đổi, chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho rằng, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cụ thể, rõ ràng cho việc triển khai, vận hành trao đổi, chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng; mà hiện nay Bộ NNPTNT đã xây dựng, tham mưu nội dung về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng trong dự thảo nghị định sửa đổi bổ sung một số điều Nghị định số 156 và đang trình Chính phủ xem xét, ban hành.
Tiếp theo là cần đẩy mạnh tổ chức đào tạo tập huấn, truyền thông, nâng cao nhận thức, năng lực cho các cán bộ trung ương, địa phương, các chủ rừng về carbon rừng, thị trường giao dịch tín chỉ carbon rừng.
Thứ ba là cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan đến chỉ tiêu về carbon rừng, hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định và công nhận kết quả giảm phát thải đảm bảo hài hòa với tiêu chuẩn nội địa và quốc tế.
Thứ tư là tranh thủ mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính của các đối tác để thúc đẩy phát triển thị trường carbon.
Tín chỉ carbon là giấy phép cho phép mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh phát thải khí CO2. Mỗi tín chỉ carbon được xác nhận là 1 tấn CO2, hoặc 1 tấn khí nhà kính khác quy đổi ra 1 tấn CO2, gọi chung là 1 tấn CO2 (viết tắt là CO2e).
Hiện có 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ áp dụng hoặc lên kế hoạch áp dụng công cụ định giá carbon, với tổng lượng khí nhà kính được kiểm soát 12 tỷ tấn CO2 tương đương, chiếm 22,3% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Đây là hướng đi tiềm năng bởi chỉ tính riêng năm 2019, nguồn thu từ định giá carbon toàn cầu lên đến 45 tỷ USD.
Tại Việt Nam, ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ, mỗi năm, có thể thu về hàng trăm triệu USD.