Theo cáo trạng của Viện KSND tỉnh Quảng Ninh, khi Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh khám xét khẩn cấp chỗ ở của ông Ca tại căn nhà số 24/18D Lê Hồng Phong, tổ dân phố Kiều Sơn, P.Đằng Lâm, Q.Hải An (TP.Hải Phòng) và căn nhà tại thôn Trại Trên Đồng Phản, xã Kênh Giang, H.Thủy Nguyên (TP.Hải Phòng) đã tạm giữ nhiều đồ vật, tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ, các trang sức, kim loại màu vàng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (mang tên Đỗ Hữu Ca cùng vợ là bà V.T.L và các cá nhân khác); sổ tiết kiệm mang tên vợ là bà V.T.L và các cá nhân khác.
Về nguồn gốc số tài sản trên, ông Đỗ Hữu Ca khai rằng số đồ vật, tài sản trên có được thông qua việc tiết kiệm từ lương trong quá trình công tác trong lực lượng công an; do bố mẹ để lại; từ nguồn là quà lễ, tết của các đơn vị và từ việc kinh doanh dự án, bất động sản của cá nhân ông Ca và vợ.
Tuy nhiên theo Cơ quan điều tra, nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh bất động sản trên không được vợ chồng ông Ca kê khai thuế thu nhập cá nhân với cơ quan thuế.
Xác minh của Cơ quan điều tra cũng cho thấy, mặc dù những tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội của Đỗ Hữu Ca và các bị can trong vụ án, nhưng việc vợ chồng ông Đỗ Hữu Ca không thực hiện kê khai đóng thuế thu nhập cá nhân về các hoạt động đầu tư kinh doanh dự án, bất động sản liên quan đến những tài sản trên cần phải được tiếp tục xác minh, làm rõ.
Ngày 24/11/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh đã tách hành vi không kê khai nộp thuế thu nhập của vợ chồng ông Ca và toàn bộ đồ vật, tài sản tạm giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị can Đỗ Hữu Ca để kiểm tra, xác minh xem xét xử lý sau.
Liên quan tới nội dung này, luật sư Hoàng Anh Sơn - Trưởng Văn phòng luật sư Hoàng Anh Sơn, Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh nhận định như sau:
Thuế là nguồn thu ngân sách quan trọng cho Nhà nước để thực hiện nhiều dự án trong xã hội và đảm bảo phúc lợi xã hội cho mọi người…. Thực hiện việc nộp thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập khác mà theo quy định phải nộp thuế thu nhập cá nhân là một trong những nghĩa vụ phải thực hiện.
Trong vụ việc trên, khối tài sản lớn mà vợ chồng ông Đỗ Hữu Ca có được từ việc đầu tư, kinh doanh các dự án, bất động sản… thì Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm điều tra, xác minh vợ chồng ông Ca có hành vi trốn tránh kê khai, trốn nộp thuế thu nhập cá nhân hay không để tùy theo tính chất, mức độ mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cụ thể: đối với hành vi chậm nộp tờ khai thuế thu nhập cá nhân sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 13 Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế và hóa đơn.
Điều 13: Xử phạt hành vi vi phạm về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế
1. Phạt cảnh cáo đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn từ 01 ngày đến 05 ngày và có tình tiết giảm nhẹ.
2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn từ 01 ngày đến 30 ngày, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ 31 ngày đến 60 ngày.
4. Phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ 61 ngày đến 90 ngày;
b) Nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ 91 ngày trở lên nhưng không phát sinh số thuế phải nộp;
c) Không nộp hồ sơ khai thuế nhưng không phát sinh số thuế phải nộp;
d) Không nộp các phụ lục theo quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết kèm theo hồ sơ quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp.
5. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn trên 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế, có phát sinh số thuế phải nộp và người nộp thuế đã nộp đủ số tiền thuế, tiền chậm nộp vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế hoặc trước thời điểm cơ quan thuế lập biên bản về hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế theo quy định tại khoản 11 Điều 143 Luật Quản lý thuế.
Trường hợp số tiền phạt nếu áp dụng theo khoản này lớn hơn số tiền thuế phát sinh trên hồ sơ khai thuế thì số tiền phạt tối đa đối với trường hợp này bằng số tiền thuế phát sinh phải nộp trên hồ sơ khai thuế nhưng không thấp hơn mức trung bình của khung phạt tiền quy định tại khoản 4 Điều này.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp đủ số tiền chậm nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước đối với hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này trong trường hợp người nộp thuế chậm nộp hồ sơ khai thuế dẫn đến chậm nộp tiền thuế;
b) Buộc nộp hồ sơ khai thuế, phụ lục kèm theo hồ sơ khai thuế đối với hành vi quy định tại điểm c, d khoản 4 Điều này.
Bên cạnh đó nếu có dấu hiệu trốn thuế thì có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cụ thể:
Điều 200: Tội trốn thuế
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;
b) Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;
c) Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán;
d) Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
đ) Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
e) Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;
g) Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;
h) Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;
i) Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
LS. Hoàng Anh Sơn cũng cho biết, ngoài ra, nếu trong quá trình Cơ quan điều tra, xác minh khối tài sản của vợ chồng ông Đỗ Hữu Ca có được không phải do đầu tư, kinh doanh các dự án, bất động sản… mà có được do các hành vi phạm tội khác thì có thể bị xử lý hình sự tương ứng với hành vi đó.