Trong khi bạn bè ước có vòng 1 lớn thì chị Mai lại đau khổ vì bộ ngực của mình. Nực lớn khiến chị khó thở, đi lại vận động đều khó khăn. Chị cũng rất mặc cảm vì thường bị chúng bạn trêu đùa. Chị không thể mặc được quần áo đẹp như bạn bè vì bộ ngực quá vĩ đại.
Chị không chịu nổi nên đã đi viện để cắt bỏ 1/3 tuyến vú. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian, tuyến vú của chị lại phát triển nhanh. Nhất là khi chị mang thai ngực càng phì đại, đến lúc sắp sinh, ngực to như 2 cái xô nước.
Sau sinh, ngực chị bắt đầu dài ra đến gần nửa mét mỗi bên khiến chị không thở nổi. Việc sinh hoạt cũng hoàn toàn bị cản trở bởi hai "vật lạ" treo lủng lẳng, không làm cách nào giữ được. Một lần nữa, chị lại phải đi viện để cắt bỏ.
Chị Mai là 1 trong nhiều bệnh nhân phì đại tuyến vú bà bác sĩ GS.TS Trần Thiết Sơn, chuyên gia phẫu thuật thẩm mỹ hàng đầu Việt Nam, cố vấn cấp cao Khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, Bệnh viện Bạch Mai đã từng phẫu thuật.
Theo GS Sơn, với chị em phụ nữ, ngực là một trong những phần quan trọng của cơ thể, tạo nên vẻ đẹp hình thể và thiên chức cao quý. Ngực bình thường có hình bán cầu ở thiếu nữ, tuy nhiên nửa dưới của bầu vú tròn và nhô ra phía trước hơn so với nửa trên. Ở người đã mang thai, sinh đẻ, nửa dưới bầu vú phát triển hơn và có tình trạng sa trễ.
"Theo nhiều nhà nghiên cứu, vú được coi là bình thường khi thể tích nằm trong khoảng 200 - 250ml. Còn phì đại vú là tình trạng bất thường về thể tích và hình dáng của vú, tăng trên mức bình thường. Nguyên nhân gây ra bởi sự phát triển của tuyến vú do hooc môn kèm theo sự thâm nhập tổ chức mỡ.
Khi thể tích vú tăng trên 300ml thì được coi là vú phì đại. Phì đại vú được chia làm các mức độ như sau: Phì đại trung bình (350 đến 500 ml), phì đại lớn (500 đến 1.000 ml), phì đại rất lớn (1.000 đến 1.500 ml), phì đại khổng lồ (lớn hơn 1.500 ml)", GS Sơn chia sẻ.
Theo GS Sơn, không chỉ chị em mà nam giới cũng có thể bị phì đại tuyến vú tuy nhiên tỷ lệ chị em mắc bệnh này cao hơn.
"Với những người bị vú phì đại, tình trạng quá khổ về kích thước của bầu vú gây cho bệnh nhân những bệnh lý toàn thân như: đau vai, đau cổ, đau lưng. Sự phì đại ở tuổi vị thành niên có thể dẫn tới gù hoặc biến dạng đốt sống cổ.
Với người bị lâu dài, tình trạng biến đổi mạch máu cổ dẫn tới thiểu năng tuần hoàn não, đau đầu, loét thành ngực do sự cọ sát của bầu vú. Những người mắc phì đại vú bị hạn chế các hoạt động thể dục thể thao, hoạt động xã hội do mặc cảm về thể hình.
Trẻ vị thành niên dễ bị chế nhạo, bắt nạt và cô lập với môi trường học đường. Các rối loạn về tâm lý và thể chất là diễn biến tất yếu của bệnh nhân.
Ở lứa tuổi dậy thì tình trạng vú phì đại thường rất lớn, vú phát triển đồ sộ không cân xứng với cơ thể. Bệnh nhân phải chịu đựng những biến đổi về thể chất và tinh thần, chịu những vấn đề tâm lý lớn.
Họ thường là trọng tâm của những trò đùa độc ác từ bạn học, không mặc vừa quần áo bình thường và khó tham gia các hoạt động thể thao. Họ cũng bị đau vai, lưng và ngực mãn tính. Những bệnh nhân này khi phẫu thuật thu nhỏ vú, khả năng tái phát lại phì đại vú vẫn có thể xảy ra", GS Sơn phân tích thêm.
Theo GS Sơn, phụ nữ bị phì đại tuyến vú, ngực có thể phì đại ngay sau sinh, phát triển ở ngay giai đoạn cho con bú, tiếp tục tăng khối lượng theo thời gian và những lần sinh con sau đó. Khối lượng vú tăng chủ yếu ảnh hưởng đến tình trạng sinh lý của bệnh nhân.
Đau vai gáy, khó thở, gù lưng, giảm tuần hoàn não, viêm da ở bầu vú là những bất tiện trong cuộc sống họ gặp phải. Khả năng tái phát ở những bệnh nhân này thấp hơn bệnh nhân ở tuổi vị thành niên. Những bệnh nhân này bên cạnh yêu cầu thu nhỏ thể tích vú còn có những mong muốn tái tạo lại hình dáng bầu vú tươi trẻ.
Những bệnh nhân sau mãn kinh có phì đại vú chủ yếu liên quan đến tình trạng béo phì hoặc thâm nhiễm mỡ ở hai bầu vú. Đây là những đối tượng chủ yếu có yêu cầu thu nhỏ vú mà ít quan tâm đến vấn đề chức năng. Những bệnh nhân này có thể cân nhắc giữa phẫu thuật thu nhỏ vú và thủ thuật hút mỡ.
GS Sơn cho biết, đối với phụ nữ phì đại vòng 1, phẫu thuật thu nhỏ là cách tốt nhất.
"Kỹ thuật tạo vạt trung bì tuyến mang phức hợp quầng núm vú (NAC) được tôi đề xuất từ năm 2007, đã áp dụng và tiến hành điều trị thành công cho nhiều bệnh nhân.
Dựa trên sự cấp máu tốt của các mạch xuyên từ động mạch vú trong và ngực ngoài, kỹ thuật này được áp dụng cho các trường hợp vú phì đại lớn hoặc khổng lồ mà trước đó chỉ có thể áp dụng bằng kỹ thuật cắt tuyến vú và ghép quầng núm vú tự do.
Kỹ thuật này đảm bảo về mặt thẩm mỹ và chức năng hoàn thiện, giữ được cảm giác của quầng núm vú và đảm bảo sự bài tiết sữa nếu bệnh nhân có nhu cầu sinh đẻ sau này", GS Sơn nhấn mạnh.
GS Sơn cũng cho biết thêm, phẫu thuật thu nhỏ ngực được chỉ định ở bất kỳ phụ nữ nào không có tiền sử chấn thương vú, chấn thương cổ hoặc lưng, các bệnh nền về tim mạch hoặc chuyển hoá. Tuỳ vào từng lứa tuổi, mục đích của phẫu thuật thu nhỏ ngực sẽ được chỉ định khác nhau về mặt chức năng hay thẩm mỹ.
Theo GS Sơn, phẫu thuật thu nhỏ ngực nói chung là một phẫu thuật an toàn. Tỷ lệ biến chứng xảy ra trong khoảng 5-20% trường hợp tùy thuộc vào kỹ thuật thực hiện và xác định loại biến chứng.
Biến chứng gần: Chảy máu, tụ dịch, nhiễm trùng vể mổ, chậm liền vết mổ, thiểu dưỡng hoặc hoại tử quầng núm vú hoặc vạt da, rối loạn cảm giác quầng núm vú…
Biến chứng xa: mất cân đối hai bầu vú, mất cân đối về hình thể của từng vú, tai chó ở cuối đường rạch da, mất cảm giác quầng núm vú, sẹo giãn hay sẹo lồi, vú quá nhỏ hay quá lớn…
"Phẫu thuật ngực hay bất kỳ phẫu thuật tạo hình nào, khi có nhu cầu, người dân, khách hàng cần tìm hiểu và lựa chọn cơ sở uy tín, chất lượng, đảm bảo hiệu quả với chi phí hợp lý, tầm soát được các biến chứng.
Quan trọng hơn, phải lựa chọn các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực, bởi chỉ cần một sai sót nhỏ nhất cũng có thể mang lại hậu quả lớn khó phục hồi", GS Sơn khuyến cáo.