Lăng vua Dục Đức (gọi là An Lăng) gồm hai khu vực: Điện Long Ân và lăng mộ vua cùng Hoàng hậu, đều lấy cồn Phước Quả ở đàng trước làm tiền án, khe Mụ Niệm chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường và dùng ngọn núi Tam Thai ở đằng sau làm hậu chẩm.
Lăng Dục Đức (An Lăng), phường An Cựu, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế là khu mộ chung của ba thế hệ làm vua: vua Dục Đức (cha), vua Thành Thái (con) và vua Duy Tân (cháu).
Khu vực lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m2, bên trong không có Bi Đình và tượng đá như các lăng vua khác.
Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Chính giữa Bửu Thành có một nhà Huỳnh Ốc dạng phương đình, thay thế cho nhà bia.
Bên trong nhà Huỳnh Ốc không có bi ký, thay vào đó là một sập đá và kỷ đá dùng để bày hương án và hào soạn mỗi khi cúng giỗ nhà vua. Hai bên tả, hữu là mộ vua Dục Đức và Hoàng hậu Từ Minh.
Điện Long Ân ở trung tâm khu vực tẩm là một công trình được xây cất theo khuôn mẫu của các ngôi điện có ở Huế.
Bên trong hiện điện Long Ân có 3 án thờ thờ bài vị của các vua: Dục Đức và vợ (ở giữa), Thành Thái (bên trái) và Duy Tân (bên phải).
Lăng vua Dục Đức ở phường An Cựu, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vua Dục Đức nhà Nguyễn tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông lên ngôi vua ngày 19 tháng 7 năm 1883, nhưng tại vị chỉ được ba ngày, ngắn nhất trong số 13 vị hoàng đế của triều nhà Nguyễn.
Phía sau điện Long Ân là nơi yên nghỉ của hai ông vua Thành Thái (con vua Dục Đức) và vua Duy Tân (cháu vua Dục Đức)- những người dám đổi ngai vàng để giành độc lập, chủ quyền cho dân tộc để rồi chọn cái chết và chôn trong những nấm mồ đơn sơ, giản dị như tấm lòng của hai ông.
Trong khu vực này còn có mộ phần của các bà vợ vua Thành Thái: Mộ bà Hoàng Quý Phi Nguyễn Gia Thị Anh, bà Nguyễn Thị Định (mẹ vua Duy Tân) và bà Khoan Phi Hồ Thị Phương; mộ công chúa Lương Linh (em gái vua Duy Tân), mộ bà Mai Thị Vàng (cải táng) vợ vua Duy Tân và một số lăng mộ của các hoàng thân anh em với vua Duy Tân.
Khu vực An Lăng còn có 39 lăng mộ các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ (Nguyễn Phúc Tộc).
Lăng Dục Đức được công nhận là di tích cấp quốc gia (loại hình kiến trúc nghệ thuật) theo Quyết định số 2890-VH/QĐ ngày 27/9/1997 Bộ Văn hóa và Thông tin.