Sự phân biệt đối xử giữa các khu vực doanh nghiệp kéo dài dai dẳng và đến nay vẫn nghiêm trọng!

29/10/2020 09:16 GMT+7
Theo Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, dù Hiến pháp, luật pháp và các nghị quyết của Đảng đều khẳng định sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế nhưng sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng vẫn kéo dài dai dẳng suốt hơn 30 năm đổi mới và đến nay vẫn nghiêm trọng và phổ biến.
Sự phân biệt đối xử giữa các khu vực doanh nghiệp kéo dài dai dẳng và đến nay vẫn nghiêm trọng! - Ảnh 1.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Niềm tin kinh doanh còn thấp và bấp bênh

Khu vực kinh tế tư nhân (KVKTTN) ở nước ta dù chỉ tính số DN tư nhân hay bao gồm cả khu vực tư nhân phi chính thức thì đại đa số đều là DN thuộc quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs).

Theo "Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2020", tính tới cuối năm 2019, Việt Nam có hơn 758 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, bên cạnh đó là hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Tuyệt đại đa số DN Việt Nam hiện nay có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (97,2%). Trong số này, DN nhỏ và siêu nhỏ chiếm 93,7% (doanh nghiệp siêu nhỏ lại chiếm tới 62,6%).

Bà Phạm Chi Lan đánh giá, tình trạng "không chịu lớn" và không muốn chính thức hóa hoạt động kinh doanh của số đông DN tư nhân siêu nhỏ, nhỏ và vừa phản ánh niềm tin kinh doanh còn thấp và bấp bênh ở KVKTTN Việt Nam.

 "Thiếu niềm tin ở năng lực của bản thân, ở môi trường kinh doanh và sự bảo vệ của luật pháp khiến nhiều người tham gia kinh doanh chỉ nhằm mưu sinh và chỉ dám làm cầm chừng, cốt cho đủ ăn hơn là dám làm lớn hay làm ăn dài hạn", bà Lan nhận xét.

Bên cạnh số DN quy mô nhỏ và siêu nhỏ thì DN tư nhân quy mô lớn đã xuất hiện và tăng khá nhanh trong hơn một thập kỷ qua, nhất là khi thị trường đất đai bùng nổ sau khi nước ta gia nhập WTO. 

Bà Lan cho rằng, hầu hết các DN tư nhân Việt quy mô lớn nổi lên nhờ tập trung vào đầu tư, kinh doanh bất động sản và tích tụ tài sản từ đất, nhờ sử dụng mối quan hệ thân hữu với một số cá nhân và cơ quan nhà nước – nơi có quyền phân bổ đất đai.

Vài năm gần đây mới bắt đầu có một số DN tư nhân quy mô lớn chuyển một phần đầu tư sang các lĩnh vực khác đa dạng hơn, như công nghiệp chế tạo, năng lượng, các dịch vụ ngân hàng, thương mại, vận tải, y tế, giáo dục…

Năng suất thấp và thua xa DNNN và FDI

Theo bà Lan, chất lượng, hiệu quả hoạt động của KVKTTN ở nước ta nhìn chung có cải thiện qua từng thời gian, tuy nhiên còn thấp hơn đáng kể về một số mặt so với DNNN và FDI.

"Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2019" chỉ ra trong hai năm 2016 – 2017, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của doanh nghiệp ngoài nhà nước lần lượt đạt 4,4% và 6%; tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) đạt 1,4% và 1,8%; chỉ số quay vòng vốn, tức tỷ lệ doanh thu trên vốn kinh doanh đạt 0,71 và 0,73.

Dù tỷ suất lợi nhuận bình quân tăng lên, nhưng khu vực DN tư nhân đã báo cáo một tỷ lệ DN bị thua lỗ khá lớn, từ 40% tới gần 50% trong suốt những năm 2011-2015 và hai năm 2016, 2017. Rủi ro vay nợ cũng là một vấn đề lớn của DN tư nhân, với hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lên tới 2,3 lần trong hai năm 2016, 2017.

Sự phân biệt đối xử giữa các khu vực doanh nghiệp kéo dài dai dẳng và đến nay vẫn nghiêm trọng! - Ảnh 2.

Doanh nghiệp tư nhân "không chịu lớn"

Chất lượng và hiệu quả của DN Việt Nam nói chung, trong đó có KVKTTN trên hai khía cạnh giá trị gia tăng và năng suất lao động cũng thấp và tụt lại khá xa so với các nước xung quanh.

"Sách trắng công nghiệp Việt Nam 2019" do Tổ chức Công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) phát hành năm 2020 cho thấy gia tăng giá trị sản xuất (MVA) và MVA tính theo đầu người ở Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, kể cả các ngành xuất khẩu, đều còn thấp.

Năm 2016, MVA của nước ta đạt 29,28 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 310 USD, kém xa so với Trung Quốc và các nước ASEAN-6, trong khi nước đứng sát trên Việt Nam là Philippines đạt MVA 59,9 tỷ USD và bình quân đầu người đạt 580 USD.

Tỷ trọng MVA trong GDP ở nước ta năm 2016 cũng chỉ mới đạt khoảng 14%, trong khi Philippines đạt gần 20%.

Về năng suất lao động, theo Tổng cục Thống kê, năm 2018, khu vực "ngoài nhà nước" chỉ đạt mức năng suất 58 triệu đồng/người so với 248 triệu đồng/người của FDI và 339 triệu đồng/người của DNNN.

"Điều này chủ yếu do quy mô của doanh nghiệp KVKTTN quá nhỏ, đặc biệt khi các hộ gia đình chiếm tới 90% khu vực này và phần lớn chỉ tham gia các hoạt động giản đơn như sản xuất các sản phẩm truyền thống, thương mại, dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng tại địa phương" – bà Lan nói.

Quy mô nhỏ, lại thiếu cả nguồn lực lẫn sự liên kết và hỗ trợ cũng khiến KVKTTN khó có thể tăng năng suất bằng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, hoặc chuyên môn hóa và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện đổi mới sáng tạo.

So với các nước trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp. Tính theo sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng khoảng 7,2% mức năng suất của Singapore; 18,5% của Malaysia; 36,2% của Thái Lan; 43% của Indonesia và 55% của Philippines. Khoảng cách về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước đó vẫn tiếp tục gia tăng.

Nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sự yếu kém của DNTN

"Dù Hiến pháp, luật pháp và các nghị quyết của Đảng đều khẳng định sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, dù môi trường kinh doanh liên tục được cải thiện nhưng sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng giữa tuyệt đại đa số DN thuộc KVKTTN với các DNNN và FDI vẫn kéo dài dai dẳng suốt hơn 30 năm đổi mới và đến nay vẫn nghiêm trọng và phổ biến" - Bà Lan thẳng thắn nói.

Theo bà Lan, hiện tượng "lợi ích nhóm", "DN sân sau", "DN thân hữu" khá phổ biến những năm gần đây đã tạo ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa DN thân hữu với DN không có quan hệ thân hữu.

Theo báo cáo "Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh" (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đưa ra năm 2018, có tới 70% doanh nghiệp cho rằng "nguồn lực kinh doanh (hợp đồng, đất đai…) chủ yếu rơi vào DN thân quen cán bộ công quyền". Việc tiếp cận thông tin cũng thiếu công bằng với 69% DN cho rằng cần phải có "mối quan hệ" để có thông tin hay tài liệu của tỉnh.

"Trong một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng như vậy, DN KVKTTN Việt Nam bị chèn ép nhiều bề nên rất khó có thể lớn lên được. Quyền tiếp cận các nguồn lực, thương quyền và cơ hội kinh doanh của họ bị thu hẹp, thậm chí bị tước đoạt bởi những DN được ưu đãi một cách không sòng phẳng" – bà Lan nhấn mạnh.

Để giải quyết được vấn đề này, theo bà Lan là không hề dễ dàng, bởi số ít người được hưởng lợi có động lực và sức mạnh nhiều mặt để bảo vệ môi trường đó, trong khi số đông bị thua thiệt lại "thấp cổ bé họng", không làm gì được.

Dẫn lời của ông Vũ Quốc Tuấn – nguyên Trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt "Thể chế nào, doanh nghiệp nấy",  bà Lan nêu rõ "Tình trạng DN KVKTTN như trên vừa qua là hệ quả, vừa phản ánh thực trạng hệ thống kinh tế thị trường ở nước ta còn cần được cải cách mạnh mẽ về nhiều mặt, nhằm tạo môi trường cạnh tranh thực sự thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh, bền vững của tất cả các DN và của nền kinh tế. Đặc biệt khi chúng ta mong muốn KTTN đóng vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế, thì bên cạnh nỗ lực của bản thân DN trong khu vực này, việc tạo lập một môi trường cạnh tranh thực sự bình đẳng, lành mạnh phải là tiền đề số 1".

Minh Lê
Cùng chuyên mục