dd/mm/yyyy

8 giống lợn nội có thịt thơm ngon đặc sản ở Việt Nam

Ngày nay, người chăn nuôi lợn (heo) có thêm nhiều lựa chọn từ các giống ngoại nhập. Nhưng việc phát triển, bảo tồn các giống lợn nội Ba Xuyên, lợn Mường Khương, lợn móng cái… là những con đặc sản để người chăn nuôi có thêm cơ hội tối ưu lợi nhuận.

1. Lợn Móng Cái

Giống lợn Móng Cái có nguồn gốc ở Hà Cối (huyện Đầm Hà) và Tiên Yên (huyện Đông Triều) tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay, lợn Móng Cái đã phân bố rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, sau đó lan ra miền Trung và phía Nam.

Lợn Móng Cái có màu sắc lông da trắng, lưng và mông có khoang đen yên ngựa, da mỏng mịn, lông thưa và thô. Đầu to, miệng nhỏ dài, tai nhỏ và nhọn, có nếp nhăn to và ngắn ở miệng. Cổ to và ngắn, ngực nở và sâu, lưng dài và hơi võng, bụng hơi xệ, mông rộng và xuôi. Bốn chân tương đối cao thẳng, móng xoè. Khối lượng lợn sơ sinh: 450-500 gr/con, lợn trưởng thành: 140-170 kg/con. Có con tới 200 kg nhưng thời gian nuôi rất lâu. Tỷ lệ mỡ/thịt xẻ 35-38%.

Lợn đực giống Móng Cái 3 tháng tuổi đã biết nhảy cái và trong tinh dịch đã có tinh trùng, lượng tinh dịch 80- 100 ml. Lợn cái 3 tháng tuổi đã bắt đầu động hớn nhưng chưa có khả năng thụ thai. Thường thì lợn cái đến khoảng 7- 8 tháng tuổi trở đi mới có đủ điều kiện tốt nhất cho phối giống và mang thai, thời điểm đó lợn đã đạt khối lượng khoảng 40 - 50 kg hoặc lớn hơn.

2. Lợn Ba Xuyên

Giống lợn nội Ba Xuyên còn được gọi là Heo Bông, có nguồn gốc từ huyện Vị Xuyên – tỉnh Sóc Trăng; là con lai giữa lợn Bershire với lợn địa phương từ năm 1930 và sau đó phân bố rải rác ở các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang, Long An, Đồng Tháp.

Giống lợn nội Ba Xuyên bắt đầu phối giống lúc 6 – 7 tháng tuổi; một năm đẻ 2 lứa, 8 – 9 con/lứa.
Giống lợn nội Ba Xuyên bắt đầu phối giống lúc 6 – 7 tháng tuổi; một năm đẻ 2 lứa, 8 – 9 con/lứa.

Giống lợn nội Ba Xuyên có lông và da cùng màu bông đen trắng xen kẽ lẫn nhau. Đầu to vừa phải, mặt ngắn, mõm hơi cong, trán có nếp nhăn, tai to vừa và đứng. Bụng to nhưng gọn, mông rộng. Chân ngắn, móng xòe, chân chữ bát và đi móng, đuôi nhỏ và ngắn. Khối lượng lợn sơ sinh: 350 – 450 gr/con. Trưởng thành nặng 140 – 170 kg/con, có con nặng đến 200 kg.

Chất lượng thịt: Lợn Ba Xuyên có khả năng cho thịt khá, tuy nhiên chất lượng thịt còn chưa cao do mỡ lưng khá dày và diện tích cơ thăn chưa cao. Độ dày mỡ lưng 4,35 cm. Tỷ lệ thịt móc hàm 73.31%.

3. Lợn Thuộc Nhiêu

Lợn Thuộc Nhiêu có nguồn gốc lai giữa lợn giống Yorkshire và lợn Bồ Xụ ở vùng Thuộc Nhiêu (huyện Châu Thành – Cai Lậy nay là tỉnh Kiên Giang) từ năm 1930; sau này, Lợn Thuộc Nhiêu phân bố chủ yểu ở một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam Bộ.

Cách chọn lợn giống: Lợn Thuộc Nhiêu có lông và da trắng, có bớt đen nhỏ trên da. Đặc biệt, tai của giống lợn này khá to, dựng đứng trên thân hình to tròn nhưng cái đuôi bé, 4 chân nhỏ thon. Khối lượng sơ sinh 600 – 700 gr/con. Lợn trưởng thành 140 – 160 kg/con.

Lợn Thuộc Nhiêu bắt đầu phối giống lúc 7 – 8 tháng tuổi. Một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 8 – 10 con.

4. Lợn Mường Khương

Lợn Mường Khương có nguồn gốc ở Huyện Mường Khương – tỉnh lào Cai; phân bố ở các xã Cao Sơn, Tả Thàng, La Pau Tẩn – huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

Giống lợn Mường Khương tại Lào Cai.
Giống lợn Mường Khương tại Lào Cai.

Lợn có da và lông màu đen tuyền hoặc đen có đốm trắng ở đầu, đuôi và chân. Lông thưa và mềm. Mõm dài thẳng hoặc hơi cong; trán nhăn, tai hơi to cúp rũ về phía trước. Tuy thân hình lợn có tầm vóc to nhưng lép người, bốn chân to cao vững chắc. Lưng hơi cong, bụng to nhưng không sệ tới sát đất, mông hơi dốc. Khối lượng lợn sơ sinh: 600gr/con, trường thành 90 kg/con có con nặng đến 120kg.

Lợn Mường Khương bắt đầu phối giống lúc 10–11 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 1- 2 lứa, mỗi lứa 5-6 con. Đây cũng là giống lợn có khả năng đề kháng lại một số loại bệnh như lở mồm long móng, tai xanh khá hiệu quả. Chất lượng thịt Mường Khương ăn ngon, vị ngọt.

5. Lợn ỉ

Lợn ỉ là một giống lợn có nguồn gốc từ tỉnh Nam Định và khá từ phổ biến ở miền Bắc Việt Nam, sau đó chúng chỉ tồn tại đến năm 1990. Lợn Ỉ lai một thời gian xuất hiện nhiều ở các địa bàn thuộc Thanh Hóa, Hà Nội, nhưng ngày nay ít được nuôi do hiệu quả kinh tế không cao, có nguy cơ tuyệt chủng.

Lợn ỉ là giống lợn có hiệu quả kinh tế thấp do tăng trọng chậm, tỉ lệ mỡ cao, sinh sản kém. Tuy vậy, đây là giống lợn có thịt thơm ngon. Mỡ lợn ỉ có cấu trúc chủ yếu là axit béo không no, ăn không ngán và không làm tăng hàm lượng colesterol trong máu. Ngoài ra, lợn ỉ là còn là giống lợn ưa sạch sẽ, tinh khôn và có khứu giác nhạy bén.

Phân loại: Có hai loại hình là ỉ mỡ và ỉ pha. Nòi ỉ mỡ bao gồm những con lợn ỉ mà dân gian gọi là ỉ mỡ, ỉ nhăn, ỉ bọ hung. Nòi ỉ pha bao gồm những con mà dân gian gọi là ỉ pha, ỉ bột pha, ỉ sống bương. Các loại ỉ này đều có thể cho phối giống lúc 4 -5 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2 lứa, 8 – 11 con/lứa, có khi 16 con/lứa.

So với lợn của các nước thì giống lợn ỉ thuần nội của Việt Nam tạng mình nhỏ chỉ khoảng con chó, nên ở một số quốc gia thuộc châu Âu, châu Mỹ vào thập niên 1980 có phong trào nuôi làm thú cưng. Người ta dắt lợn đi dạo như dắt chó và có thể tập cho lợn dùng hộp đựng giấy vụn để phóng uế hoặc báo hiệu cho chủ để được cho ra ngoài sân.

6. Lợn Mẹo

Lợn Mẹo còn có tên gọi khác là lợn Mèo. Đây là giống lợn của đồng bào dân tộc H’Mông, phân bố chủ yếu ở vùng cao của Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Yên Bái. Đây là giống lợn nội, có khả năng cho thịt tương đối ca tỷ lệ móc hàm 83,53%; Tỷ lệ xẻ 72,26%.

Lợn Mẹo có lông dài, cứng; lông và da màu đen, thường có 6 điểm trắng ở 4 chân, trán và đuôi, một số có loang trắng ở bụng; đầu to, rộng, mặt hơi gãy, trán dô và thường có khoáy trán, mõm dài, tai nhỏ và hơi chúc về phía trước. Thân hình lợn Mẹo có vai rộng, lưng rộng, phẳng hoặc hơi vồng lên, mông cao hơn vai; bụng to nhưng không sệ; chân cao, thẳng, vòng ống thô, đi đứng trên hai ngón trước. Khối lượng lợn sơ sinh: 480 – 500 gr/con, nuôi 1 năm nặng 40kg, trưởng thành 110 – 120 kg/con.

Lợn Mẹo bắt đầu phối giống lúc 10 tháng tuổi. Một năm đẻ 1 lứa, mội lứa 6 – 7 con, nuôi ở đồng bằng có thể đẻ 9 – 10 con.

7. Lợn Sóc

Lợn Sóc (lợn Đê, Heo Sóc,...) là một giống lợn của người Êđê, người M'nông. Giống lợn nhà này phù hợp một số đặc điểm và địa hình của buôn làng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên như Êđê, Gia Rai, Bana.

Lợn Sóc phân bố chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum. Lợn Sóc mình thon nhỏ, mõm dài và nhọn. Da dày, mốc, lông đen, dài, có bờm dài và dựng đứng. Chân nhỏ, đi bằng móng, rất nhanh nhẹn. Khối lượng lợn sơ sinh 400 – 450 gr/con. Trưởng thành 40 kg/con. Lợn bắt đầu phối giống lúc 9–12 tháng tuổi. Một năm đẻ 1-2 lứa, mỗi lứa 6-10 con. Chất lượng thịt: Ít tích mỡ,tỉ lệ nạc cao. Tỉ lệ xẻ đạt khoản 77%, tỉ lệ móc hàm đạt 44%.

8. Lợn Mini

Lợn Mini còn có tên khác là lợn cỏ Mini, nguồn gốc từ Huyện Pakô và Vân Kiều, tỉnh Quảng Trị; sau phân bố chủ yếu ở huyện Đắc Krông, Hướng Hóa, Do Linh, Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị.

Lợn Mini có màu lông da đen bạc nhưng thỉnh thoảng có màu phớt vàng hung, lưng thẳng. Thân hình gọn, đầu và cổ to. Mõm nhọn, tai nhỏ. Hình dáng giống như con chuột.

Khối lượng lợn sơ sinh: 250 – 300 gr/con. Bắt đầu phối giống lúc 7 – 8 tháng tuổi. Một năm đẻ bình quân 1,5 lứa, mỗi lứa 8 con. Thịt ngon, ít mỡ.

Huyền Phương